Giống như phong cảnh Đà Lạt ẩn hiện sau những dải sương mờ, Nguyễn Vĩnh Nguyên kiến tạo văn bản của mình từ khoảng mờ giữa những trích đoạn trong văn khố, những cảnh quan đã thành “dấu hiệu nhận diện” của Đà Lạt, những ảnh chụp được trục vớt lên từ đáy hồ của quá khứ với những câu chuyện, có khi không phân biệt được là hư cấu hay phi hư cấu, và thường khi là những huyễn tưởng...
1.
Những thực hành viết của Nguyễn Vĩnh Nguyên về Đà Lạt làm liên tưởng đến Goldberg Variations (1) của Bach, tác phẩm được mở đầu và kết thúc bằng một aria với phần chính là 30 biến tấu chia thành 10 nhóm mà mỗi nhóm là kết hợp đoạn có giai điệu nhẹ nhàng, trang nhã với những toccata hay canon với kỹ thuật điêu luyện và phức điệu nghiêm ngặt. Các biến tấu không dựa trên giai điệu của aria mà là dải âm trầm của nó.
Giống như tác phẩm của Bach, cho đến nay Nguyễn Vĩnh Nguyên đã có 6 cuốn sách về Đà Lạt với sự luân chuyển về thể loại từ tùy bút (Với Đà Lạt, ai cũng là lữ khách), biên khảo (mà anh có lúc gọi là du khảo), gồm: Đà Lạt, một thời hương xa, Đà Lạt, bên dưới sương mù và Đà Lạt, những cuộc gặp gỡ, hư cấu (Ký ức của ký ức) và cuốn sách mới nhất, Thành phố những lục địa bay, một sự pha trộn giữa những tư liệu khảo cứu và những hư cấu về thành phố. Có những cuốn sách giống như những aria chừng mực kìm nén, chứa đựng những chủ đề sẽ xuyên suốt những thực hành của Nguyên về Đà Lạt: Đà Lạt, những cuộc gặp gỡ; Đà Lạt, một thời hương xa. Có những cuốn lại là những cuộc tìm kiếm đầy phức tạp và bảng lảng trong sương như chính Đà Lạt: Ký ức của ký ức (2).
Điều đặc biệt là dù viết tùy bút hay du khảo, dù hư cấu hay phi hư cấu, ngay cả khi đối diện với những đòi hỏi nghiêm ngặt của thể văn khảo cứu, Nguyễn Vĩnh Nguyên vẫn luôn giữ được cái mà anh tự gọi là “nhạc tính hoài cảm tinh tế”, thứ “không gian cảnh quan ngôn ngữ”, thứ văn phong đặc biệt, phần quan trọng làm nên điều mà chính anh tự nhận là mặc khải mà thành phố đã hé lộ trong anh.
2.
Tôi nghĩ, trong cuộc hành trình của tác giả này vào thế giới Đà Lạt, vẫn cứ phải quay lại một tác phẩm khiêm nhường: Đà Lạt, những cuộc gặp gỡ. Nếu như Với Đà Lạt, ai cũng là lữ khách là cuộc khởi hành báo hiệu những mạch đề tài sẽ được khai triển trong những cuốn sách tiếp theo, thì phải đến Đà Lạt, những cuộc gặp gỡ, câu chuyện của anh về thành phố mới thực sự định hình: một đô thị cao nguyên được ra đời từ dự phóng và ý chí của những thực dân phương Tây, một vị toàn quyền đầy tham vọng chính trị và một nhà khoa học, một nhà thám hiểm kiểu thế kỷ XIX, trải qua giấc mơ ngắn ngủi của một đế triều ở buổi hoàng hôn trong giai đoạn Hoàng triều cương thổ và chuyển hóa thành một đô thị di dưỡng và văn hóa dưới các nền cộng hòa của miền Nam Việt Nam trước 1975.
Nguyễn Vĩnh Nguyên kể câu chuyện về thành phố và điều quan trọng, tác giả này xác định được điều mình tìm kiếm: căn cốt, căn tính của đô thị.
Nguyễn Vĩnh Nguyên kể câu chuyện về thành phố và điều quan trọng, tác giả này xác định được điều mình tìm kiếm: căn cốt, căn tính của đô thị. Có thể nói, Nguyễn Vĩnh Nguyên không chỉ là người viết sử thành phố (dù ở phương diện đó, hoàn toàn có thể đặt anh cạnh những người viết sử thành phố quan trọng nhất của Đà Lạt, như Eric T. Jennings) mà anh tìm kiếm phần hồn của thành phố vẫn được lưu giữ trong những phế tích, những cảnh quan, những văn khố đây đó và cả ký ức của những thị dân. Có hiểu điều đó, có đặt trong mạch nguồn của sự viết đó, ta mới có thể hiểu được cái logic của tác giả khi liên tục di động giữa những lối viết, từ phi hư cấu sang hư cấu, từ tùy bút cá nhân sang khảo cứu, biên khảo về thành phố.
Những thực hành thể loại - đó là những cách khác nhau để anh khai triển mặc khải của mình về Đà Lạt. Đó là một hành trình Đi tìm một căn tính đã mất, hay đúng hơn, bị ẩn khuất, của một đô thị.
3.
Do hoàn cảnh lịch sử đặc biệt của mình nên suốt toàn bộ thời thuộc Pháp cũng như giai đoạn những chính thể cộng hòa trước năm 1975, Đà Lạt là một thành phố chịu ảnh hưởng sâu sắc của những giá trị văn hóa Công giáo. Có lẽ đó cũng là một trong những điều mà thành phố đã mặc khải cho Nguyễn Vĩnh Nguyên khi anh hành trình ngược thời gian đi tìm kiếm căn tính của nó. Tinh thần của Phúc âm thấm vào ngôn từ của anh, cùng với những lớp ngôn từ được làm sống dậy từ những tàng thư tạo nên một giọng điệu thuần khiết, khiêm nhượng nhưng giàu ánh sáng và xưa cũ, một thứ xưa cũ rất riêng trong những cuốn sách của anh viết về Đà Lạt.
Không những thế, đến Thành phố những lục địa bay, cuộc gặp gỡ ấy thấm sâu hơn nữa vào trong thực hành viết của anh, chạm đến tầng thể loại. Cuốn sách giống như một Thánh kinh về thành phố và cho thành phố. Không khí Phúc âm thấm đẫm trong cách xây dựng những đối thoại giữa người kể chuyện, messiah (3) của một thế giới đã mất, và “họ” những con người vô nhân xưng của thành phố hiện tại.
Bìa cuốn sách Thành phố những lục địa bay.
Giống như Phúc âm, cuốn sách được tạo nên qua việc ghép những đoản văn mà mỗi phân đoạn giống như một chương trong Kinh thánh: những câu chuyện đầy tính ngụ ngôn, những ẩn ngữ, những hình tượng ẩn dụ và cả những đoạn thơ - văn xuôi đẹp như những Thánh vịnh. Nó được mở đầu bằng sự sinh thành của một hồ nước nhân tạo, như Sáng thế, “khởi thủy là Lời” và được khai triển với những phong cảnh - tâm cảnh, những tình huống và những tâm trạng rất đặc thù của con người thành phố.
Có thể nói, ngụ ngôn và hư cấu là cách hữu hiệu để kể lại những định mệnh, dựng lên những chân dung về những con người đặc trưng của thành phố và tái hiện lại cái không khí đặc thù như một thứ hương hoa đậm đặc vừa có thể chữa lành mà lại vừa có thể trở thành một thứ tâm bệnh của Đà Lạt.
Từ một phía khác, giống như phong cảnh Đà Lạt ẩn hiện sau những dải sương mờ, Nguyễn Vĩnh Nguyên kiến tạo văn bản của mình từ khoảng mờ giữa những trích đoạn trong văn khố, những cảnh quan đã thành “dấu hiệu nhận diện” của Đà Lạt, những ảnh chụp được trục vớt lên từ đáy hồ của quá khứ với những câu chuyện, có khi không phân biệt được là hư cấu hay phi hư cấu, và thường khi là những huyễn tưởng. Những ý tưởng về một thực hành phá vỡ những ranh giới thể loại đã xuất hiện trong Ký ức của ký ức nhưng lần này, Nguyên quyết liệt hơn trong sự sáng tạo của mình, để tạo nên một thứ tuyệt-đối-khác, một cái gì không nằm trong những ranh giới truyền thống.
4.
Thực hành thể loại đó, thường sẽ có thể bị coi như một “thể nghiệm”. Nhưng trong trường hợp của Nguyễn Vĩnh Nguyên, tôi không tin lắm khái niệm này. “Thể nghiệm” cho thấy một cái gì còn chưa vững chắc, chưa ổn định, chưa định hình, một cuộc mạo hiểm của lối viết mà bản thân người viết chưa chắc đã có đầy đủ xác tín về nó. Đối với Thành phố những lục địa bay, thực hành đó là một xác tín, đã được ấp ủ từ những văn bản trước, và quan trọng hơn nữa, được tạo nên từ một niềm tin vững chắc về một cái gì gần như là trách vụ: tạo nên một diễn ngôn về căn tính của một thành-phố-từ-những-sử-thực (historical fact).
Thể loại, suy cho cùng là những công cụ và những khuôn mẫu. Khi chấp nhận nó, người ta sẽ bị chính nó định khuôn. Vậy mà “cuộc sống ở mãi ngoài kia” của thể loại. Nó rộng lớn và mời gọi sự vượt qua thể loại. Cuộc kiếm tìm căn tính thúc đẩy sự vượt qua thể loại hay đúng hơn, vượt lên thể loại. Cuối cùng thì thể loại cũng không còn quan trọng nữa mà quan trọng là anh có điều gì cần phải nói ra, cần phải trình hiện, cần phải kể lại, phải phô bày.
Nhìn từ góc độ đó ta mới thấy thực hành thể loại trong cuốn sách là một hành động có ý thức, cao hơn một “thể nghiệm”. Chỉ có cách viết đó mới mở ra cho câu chuyện những giới hạn mới mà sự định biên thể loại không thể mang đến. Chỉ cách viết đó mới có thể tái dựng được không khí của một thành phố với những cuộc tình mãi mãi dở dang, những cái chết đẹp như “người chết trôi đẹp nhất trần gian”, những bí mật không bao giờ có lời giải đáp, những tình huống không thể giải thích.
Chỉ có nó mới có thể diễn tả được một thứ spleen (u uẩn) kỳ lạ như một định mệnh của thành phố, thứ spleen có thể ru con người ta vào cái chết một cách nhẹ nhõm và đầy chất thơ, thứ spleen được tạo nên từ định mệnh của thành phố: tạo ra một nơi chốn vừa để phục hồi sức khỏe và cũng để những kẻ chinh phục từ phương xa sống với nỗi u hoài về quê hương xa xôi.
Đà Lạt trong Thành phố những lục địa bay không phải là một tưởng tượng về một thành phố đã mất, được tô vẽ từ sự khuyết thiếu của hiện tại. Tác giả nhìn thấu cả định mệnh cay đắng của một thành phố hai lần nhân tạo.
Chỉ có lối viết ấy mới có thể tái dựng lại được những bóng ma vẫn đi xuyên qua thành phố của những đan sĩ chọn Đà Lạt làm nơi chôn trái tim của mình, những khúc kinh cầu vẫn vang trong tu viện hoang phế không người, những tiếng chuông của một nhà thờ đã bị đổ sụp tự bao giờ vẫn vang lên trên thị tứ trong tâm tưởng những người bị ký ức cầm tù. Chỉ có lối viết ấy mới khiến cho văn chương vượt lên được một thứ nostalgie (hoài niệm) trốn lánh vào một giấc mơ tưởng tượng về quá khứ.
Đà Lạt trong Thành phố những lục địa bay không phải là một tưởng tượng về một thành phố đã mất, được tô vẽ từ sự khuyết thiếu của hiện tại. Tác giả nhìn thấu cả định mệnh cay đắng của một thành phố hai lần nhân tạo. Đà Lạt không được tạo nên từ việc nương theo cảnh quan để tạo nên một đô thành mà từ một ý chí tái tạo một cảnh quan từ viễn xứ lên một nơi chốn xa lạ. Nó tạo nên một châu Âu giữa núi non cao nguyên Trung phần. Chính vì thế, nên nó bị kết án bị mắc kẹt và bị tan rã. Như trong cái nhìn tưởng tượng của chính người đã khai mở nên thành phố. Nó là một “cơ thể tù đày” với một thứ “ảo giác trùng khơi” bị tha hóa từ giấc mơ về một “thành phố trong rừng với hệ sinh thái thảo mộc” thành một sự “mô phỏng và sao chép của các khối kiến trúc, các đồ án quy hoạch mang theo ý chí và tham vọng” của những kẻ cầm quyền. Nó giống như “con thuyền mắc cạn”, “cô đơn và không ngừng mục rã”.
Những sức mạnh của huyễn tưởng giúp Nguyễn Vĩnh Nguyên nhìn thấy cái bi kịch đầy uy nghi và tuyệt vọng của một vị hoàng đế bị lịch sử săn đuổi và Đà Lạt là nơi chốn lóe lên những giấc mơ cuối cùng của Hoàng triều cương thổ. Và chính sức mạnh của những ẩn dụ, như Kinh Thánh, đã giúp tác giả này nhìn thấy những sự thật nào đó của thành phố, về định mệnh và những vấn đề của nó: luôn bị những ý chí quyền lực làm cho biến dạng; bị biến đổi bởi du lịch, như một người nữ bán thân cố chiều theo những ham muốn của những viễn khách tham lam vô độ; phải đối diện với cơn điên của sự phá hủy và sự tẩy xóa ký ức; những vết thương lở loét của không gian, đất đai và cảnh quan với những lớp bụi đỏ phủ lên cảnh vật.
5.
Trong Đà Lạt, những cuộc gặp gỡ, Nguyễn Vĩnh Nguyên thú nhận anh đã được thành phố mặc khải. Trong tĩnh lặng và cô độc, trong cuộc kiếm tìm, anh đã thấy, một cách toàn cục, trọn vẹn, những gì mà lý trí không thể giúp nhìn thấy. Một cái nhìn xuyên qua và vượt lên, nhìn thấy một “thành phố không thấy” bên cạnh một “thành phố đang thấy”. Có lẽ là vậy. Nhưng mặc khải không phải là một món quà miễn phí. Như từng ghi trong sách của Thánh sử Luke: “Hãy xin, sẽ được. Hãy tìm, sẽ thấy. Hãy gõ, cửa sẽ mở cho các con”.
Mặc khải về thành phố là thứ mà ở cuối con đường, kẻ đi tìm, kẻ xin cầu, kẻ mòn tay gõ cửa tìm thấy. Chỉ khi mang tiếng chuông trong tim thì sẽ luôn nghe thấy tiếng chuông, dù cung thánh không còn nữa.
PGS-TS. Phạm Xuân Thạch
(Nhà phê bình, nghiên cứu văn học, Trưởng khoa Văn học, Đại học Quốc gia Hà Nội; Đọc Thành phố những lục địa bay, Nguyễn Vĩnh Nguyên, Phương Nam Book & NXB Đà Nẵng, 2022)
Tác giả Nguyễn Vĩnh Nguyên có một buổi tọa đàm, gặp gỡ và trò chuyện với độc giả, sinh viên và giới chuyên trách văn hóa Đà Lạt với chủ đề Đà Lạt trên trang văn nhân dịp ra mắt tác phẩm mới: Thành phố những lục địa bay.
Tác giả Nguyễn Vĩnh Nguyên trong một cuộc trò chuyện với độc giả tại quán cà phê Tùng, Đà Lạt. Ảnh: Hoài Như
Theo kịch bản dự kiến, Nguyễn Vĩnh Nguyên sẽ chia sẻ câu chuyện viết về Đà Lạt trong gần 10 năm qua và trao đổi những vấn đề lịch sử - văn hóa Đà Lạt mà người đọc quan tâm. Chương trình do Thư viện Lâm Đồng; Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Lâm Đồng tổ chức, diễn ra chiều 30.9 tại Thư viện Lâm Đồng (14 Trần Phú, phường 3, Đà Lạt), trong khuôn khổ hoạt động văn hóa hưởng ứng Festival Hoa Đà Lạt 2022.
Sau đó, tác giả Nguyễn Vĩnh Nguyên có một buổi trò chuyện cùng độc giả trẻ với chủ đề Thành phố những lục địa bay vào sáng 1.10 tại Phố Bên Đồi Creative Studio (10 Lý Tự Trọng, phường 2, Đà Lạt); chia sẻ về tác phẩm mới nhất vừa được ấn hành. Chương trình do dự án Phố Bên Đồi tổ chức.
__________________
(1) Variation: Thể nhạc biến tấu
(2) Thông tin về các tác phẩm: Với Đà Lạt, ai cũng là lữ khách (NXB Trẻ, 2015; tái bản 7 lần), Đà Lạt, một thời hương xa (NXB Trẻ, 2016; tái bản 7 lần), Đà Lạt, bên dưới sương mù (Phanbook & NXB Phụ Nữ, 2019; tái bản 2 lần); Đà Lạt, những cuộc gặp gỡ (NXB Trẻ, 2021; tái bản một lần)
(3) Người được chọn xức dầu, vị cứu tinh, theo điển tích Do Thái giáo