Thứ Tư, 19 tháng 10, 2022

Pháp : Saint-Chamas ghi công lính thợ Đông Dương trong Thế Chiến II.... Chân dung người lính Việt Nam trong Thế Chiến I (1914-1918)

Pháp : Saint-Chamas ghi công lính thợ Đông Dương trong Thế Chiến II

Lễ tưởng nhớ công lao của khoảng 1.000 người lính thợ Đông Dương làm việc trong Nhà máy thuốc súng Saint-Chamas, miền nam Pháp, ngày 16/10/2022.
Lễ tưởng nhớ công lao của khoảng 1.000 người lính thợ Đông Dương làm việc trong Nhà máy thuốc súng Saint-Chamas, miền nam Pháp, ngày 16/10/2022. © RFI / Brigitte Sabattini

Ngày 16/10/2022, thành phố Saint-Chamas và Miramas tổ chức lễ tưởng nhớ công lao của khoảng 1.000 người lính thợ Đông Dương bị trưng dụng và làm việc ở Nhà máy thuốc súng Saint-Chamas trong Thế Chiến thứ II. Lễ ghi công những người lính thợ Đông Dương, chủ yếu từ Việt Nam, trở thành sự kiện thường niên từ năm 2011 ở Saint-Chamas và xã Salin-de-Giraud, vùng Camargue.

QUẢNG CÁO

Trả lời RFI Tiếng Việt, ông Jacques Lemaire, nhà sáng lập và là người đóng góp quan trọng cho sự kiện này, cho biết thêm về buổi lễ :

« Năm 2006, nhờ con của một lính thợ Đông Dương, là bà Danielle Vo Van, và sau đó là cuốn sách của nhà sử học Pierre Daum, tôi khám phá số phận đau thương của những người lính thợ Đông Dương bị bắt sang giúp Mẫu quốc. Vì thế, năm 2011, tôi đã đề xuất gắn bia ghi công với thị trưởng Saint-Chamas. Từ đó cho đến năm 2014, chúng tôi tổ chức lễ tưởng niệm hàng năm. Rồi từ năm 2014, khi Đài tưởng niệm Những người thợ Đông Dương (Mémorial pour les Ouvriers Indochinois) được dựng ở xã Salin-de-Giraud, chúng tôi thay nhau tổ chức sự kiện này, năm nay ở Saint-Chamas thì năm tới ở Salin-de-Giraud. Năm 2022, sự kiện diễn ra ở công viên Nhà máy thuốc súng Saint-Chamas và Miramas, nơi những người lính thợ Đông Dương làm việc trong nhiều năm. 

Tham gia lễ tưởng niệm có thị trưởng của các địa phương liên quan, nhiều dân biểu và chính quyền dân sự, quân sự. Ngoài ra còn có con cháu của những người lính thợ Đông Dương, trong đó có chủ tịch Hội M.O.I - Tưởng nhớ những người lính thợ Đông Dương (Mémoire des Ouvriers Indochinois) - bà Myriam Le Huu, hiện sống ở Grenoble, cách Saint-Chamas khá xa nên tôi chuẩn bị là chủ yếu. Các quan chức đặt vòng hoa ghi công, các thị trưởng và dân biểu lần lượt đọc diễn văn. Khách dự lễ còn có thể xem một triển lãm nhỏ do tôi chuẩn bị, sau đó gặp gỡ, chia sẻ kỉ niệm bên bữa tiệc nhỏ thân mật.

Buổi chiều, chúng tôi đi đến nghĩa trang thành phố, viếng ba người lính thợ Đông Dương, qua đời trong những năm 1940-1945 và yên nghỉ ở Saint-Chamas. Hiện giờ, tôi vẫn chưa tìm được tài liệu để hiểu thêm nguyên nhân qua đời, vì tai nạn lao động hay vì lý do nào khác, của ba người này. Tuy nhiên, chúng tôi vẫn làm theo nghi thức của người Việt, chúng tôi đặt vòng hoa, thắp hương và dành một phút mặc niệm ». 

Ký ức lính thợ Đông Dương trong lịch sử thành phố Saint-Chamas

Saint-Chamas không nổi tiếng như Arles hay Nîmes, hai thành phố lân cận với những công trình kiến trúc từ thời La Mã. Thế nhưng, thành phố nhỏ bên bờ Ao Berre (Etang de Berre) lưu nhiều vết tích có từ thế kỷ I trước Công nguyên, trong đó có giai đoạn những người lính thợ Đông Dương đến làm việc ở Nhà máy Thuốc súng (La Poudrerie de Saint-Chamas), thành lập năm 1690 và hiện là khu bảo tồn thiên nhiên.

QUẢNG CÁO

Còn Ao Berre, từng nổi tiếng ô nhiễm vì những khu công nghiệp, giờ là lá phổi xanh cho những ngôi làng lân cận.

Giống như nhiều địa phương nhỏ khác ở Pháp, Saint-Chamas có một tòa thị chính, một bảo tàng, khu cảng cổ, những hàng cà phê dưới tán cây tiêu huyền. Thế nhưng, qua lời kể của ông Jacques Lemaire, một nhà giáo nghỉ hưu và đóng vai trò lớn trong nhiều hoạt động của thành phố, mỗi ngóc ngách đều có một bí mật, bắt đầu từ sự tích và cách đọc tên gọi Saint-Chamas.

Thành phố biển hình thành cạnh núi đá vôi

Ấn tượng đầu tiên có lẽ là những ngôi nhà được đào trong vách đá đối diện bến cảng ở Ao Berre. Nếu may mắn, du khách có thể đặt được phòng trong những ngôi nhà độc đáo đó và có thể phóng tầm mắt ra khắp Ao Berre rộng lớn. Ông Jacques Lemaire giải thích :

“Vách đá chủ yếu hình thành từ dạng cát hóa thạch và đá vôi. Ngày xưa, đồi trườn ra sát Ao Berre nên cảng có rất nhiều chỗ cất trữ hàng hóa. Vào khoảng năm 1600-1610, người dân xin phép tổng giám mục Arles quản lý khu vực Saint-Chamas đào hầm trong đồi để làm kho hàng. Vì khu hầm thấp nhất không đủ chỗ, nên họ lại xin phép đào thêm một tầng ở trên cao, thậm chí là thêm cả tầng ba. Vì đào nhiều quá nên hầm bị sập do đất đồi rất bở và dần dần tạo thành vách như chúng ta thấy hiện nay. Sau đó, người dân Saint-Chamas thấy rằng nếu đi vòng qua quả đồi và đào ở phía bên kia đồi, thì có thể vào được kho của họ. Thế là họ làm. Từ thời đó, vào khoảng giữa thế kỷ 18, Saint-Chamas có những ngôi nhà trong hang rất đặc biệt.

Theo tôi biết, ở châu Âu có duy nhất một ngôi làng nhỏ ở Tây Ban Nha có những ngôi nhà xuyên đồi, từ bên này sang bên kia như thế này. Thực ra ở vùng Vaucluse và Val de Loire vẫn có những công trình xây trong núi, nhưng chỉ dành làm kho. Còn ở Saint-Chamas, đó là kiểu hành lang xuyên từ đông sang tây, phóng được tầm mắt ra khắp khu vực Ao Berre với quang cảnh tuyệt vời nhìn từ trên cao.

Có thể thấy ban đầu đó chỉ là những nhà kho, tinh chế dầu, sau đó bị bỏ hoang rồi người nghèo đến ở trái phép. Khoảng 60 năm trở lại đây, những ngôi nhà trong hang đã trở thành mốt. Hiện giờ có hai chủ sở hữu cho thuê phòng du lịch ở đây”.

1/4
Khu cảng Saint-Chamas, dựa lưng vào đồi đá vôi.
Từ bảo tàng Paul Lafran nhìn xuống.
Bên trong tầng hai của bảo tàng Paul Lafran của thành phố Saint-Chamas.
Cầu Flavien có từ thế kỷ I trước Công nguyên, ngay lối vài thành phố Saint-Chamas.
Khu cảng Saint-Chamas, dựa lưng vào đồi đá vôi. © © RFI / Thu Hằng

Dãy đồi chia Saint-Chamas thành hai khu vực : khu phố Delà, bên kia đồi với nhà thờ, tòa thị chính và khu Pertuis nằm sát cảng. Đoạn đường dọc chân vách đá với những ngôi nhà trong hang trên cao dẫn đến một quảng trường nhỏ, nơi có thể nhìn thấy ngay Cầu Đồng hồ (Pont de l’Horloge) dài 62 mét và cao 23 mét. Đây là công trình “hai trong một” : Cầu cạn và tháp đồng hồ, được xây ở hai thời điểm khác nhau. Cầu được xây sau tai nạn sập đồi và bịt luôn đường hầm nối hai khu vực. Ông Jacques Lemaire giải thích :

“Người dân mỗi lúc lại muốn có thêm chỗ, thế là họ lại đào. Cùng với đường hầm nối trung tâm thành phố đến cảng, rồi đường dẫn nước tưới chạy ở phía trên gây thấm ẩm, những công trình của người dân làm bên trong quả đồi lỗ chỗ như miếng pho mát gruyère, thế là tất cả bị sập tháng 12/1863. Vì ở gần đó có cây cầu Flavien có từ thế kỷ I trước Công nguyên, cho nên người kiến trúc sư muốn làm một dự án đẹp mắt một chút.

Sau đó, họ phải tìm phương tiện để chuyển đống đất đá đi. Chúng ta biết là vào lúc đó chỉ có xe cút kít, ngựa và lừa để vận chuyển. Nhà máy thuốc súng tỏ ra quan tâm và nhận hết mấy nghìn mét khối đất đá để đổ ra Ao Berre, mở rộng diện tích nhà máy. Quá trình xây dựng mất tầm 2 năm cho đến khoảng năm 1867, cây cầu cạn bắt đầu hoạt động”.

Từ thành phố công nghiệp ô nhiễm đến khu bảo tồn thiên nhiên

Ngay sát cầu có cầu thang dẫn lên trên để ngắm toàn cảnh thành phố trải đến Ao Berre và có thể tản bộ dưới tháp đồng hồ, được xây vài chục năm sau đó. Tháp đồng hồ cũng có câu chuyện độc đáo riêng :

“Cho đến những năm 1900, đồng hồ luôn gắn với nhà thờ và được coi là dấu hiệu của Công Giáo. Ở Pháp, thời kỳ đó có ý nghĩa quan trọng, người ta nói đến thế tục hóa, nói đến nền Cộng hòa tách hoàn toàn khỏi Công Giáo, đó cũng là thời kỳ ra đời của đạo luật 1905 nổi tiếng. Vì thế, người dân Saint-Chamas, nhất là công nhân ở nhà máy thuốc súng, yêu cầu phải có một tháp đồng hồ Cộng Hòa. Vấn đề ở chỗ : Đặt ở đâu ? Họ đề nghị xây ở trung tâm làng, gần lối vào nhà máy thuốc súng cạnh đó. Đồng hồ được lắp năm 1902 và khánh thành ngày 04/09 cùng năm, đúng ngày kỷ niệm thành lập Đệ Tam Cộng Hòa”.

Trên đồng hồ khắc hai chữ “RF” nhưng hai chữ này cũng là chủ đề tranh luận một thời gian :

“Đồng hồ đó do một chủ doanh nghiệp làm ra. Ông ấy là hậu duệ của một người Ý nhập cư mang họ Ramela và tên là François, vì thế mà trùng với hai chữ cái đầu. Con cháu của người này vẫn nói : Đó là hai chữ cái viết tắt tên của ông chúng tôi ! Nhưng thực ra đó là hai chữ cái đầu của République Française (Cộng Hòa Pháp)”.

Ông Jacques Lemaire như một cuốn từ điển sống về lịch sử thành phố. Người giáo viên ở miền bắc Pháp phải lòng với cô gái miền nam và về “ở rể” ở Saint-Chamas. Chính người bố vợ Paul Lafran đã truyền cảm hứng cho ông, bắt đầu từ khảo cổ rồi đến lịch sử thành phố và hệ sinh thái. Tất cả các bộ sưu tập của ông Paul Lafran được bảo quản trong bảo tàng mang tên ông. Bảo tàng cũng là một công trình độc đáo, nằm trong lòng đồi.

“Chúng ta đang đứng ở tầng trệt của bảo tàng Paul Lafran, bố vợ quá cố của tôi. Ban đầu, ông lập bảo tàng về khảo cổ, nhưng sau đó các bộ sưu tập ngày càng được mở rộng. Tiếp theo chúng tôi được quyền sử dụng một cơ sở khá lớn, trước đó là trụ sở của Phòng Du lịch. Chúng tôi chọn gian phòng mộc mạc này, với những xà đỡ xung quanh, để trưng bày các bộ sưu tập tạm thời. Chúng tôi ưu tiên các họa sĩ địa phương, sống ở Saint-Chamas, Miramas hoặc trong bán kính 10 km, để giới thiệu họ với công chúng.

Tầng phía trên là bảo tàng giúp khách tham quan khám phá thêm những bộ sưu tập của chúng tôi, như khảo cổ học, dân tộc học, trong đó có một phần nói về lịch sử nhà máy thuốc súng và những ký ức kết nối thành phố chúng tôi với những người Việt đã sống ở đây, như bản ma-két chiếc thuyền buồm do ba người thợ Việt Nam đóng. Chúng tôi có một bức tranh chân dung, mà tôi xin gọi là của “một thanh niên Đông Dương” do họa sĩ René Seyssaud nổi tiếng thế giới vẽ. Ông là người vùng Provence và được cho là nhà tiên phong của trường phái Dã thú. Ở tầng 3 còn có nhiều tác phẩm khác của René Seyssaud và của một số họa sĩ theo trường phái này”.

1/3
Khu vực Nhà máy thuốc súng cũ giờ là Công viên bảo tồn thiên nhiên Saint-Chamas.
Ông Jacques Lemaire hướng dẫn RFI Tiếng Việt thăm công viên Nhà máy thuốc súng (Parc de la Poudrerie) ở Saint-Chamas.
Ông Jacques Lemaire giới thiệu bia ghi công những người lính thợ Đông Dương trong Thế Chiến II gắn trên tường bảo tàng trong khu bảo tồn thiên nhiên Saint-Chamas.
Khu vực Nhà máy thuốc súng cũ giờ là Công viên bảo tồn thiên nhiên Saint-Chamas. © © RFI / Thu Hằng

Dấu ấn của lính thợ Đông Dương trong Nhà máy thuốc súng Saint-Chamas

Những người lính thợ Đông Dương là lực lượng quan trọng cho hoạt động của Nhà máy Thuốc súng Saint-Chamas trong hai cuộc Thế Chiến. Ông Jacques Lemaire nhớ lại, khi mới chuyển đến sống tại đây, “tôi nhìn thấy nhà máy hoạt động, ống khói nhả nghi ngút”, giờ là công viên xanh mướt mắt, ngập tiếng ve vào mùa hè.

“Toàn bộ khu công viên, trước là nhà máy thuốc súng có diện 137 hecta. Khi mới thành lập chỉ có 1,5 hecta, nằm gần Saint-Chamas. Nhà máy sau đó được mở rộng khi chuyển sang sản xuất chất nổ và phải tách các tòa nhà, xa nhau nhất có thể, vì nếu một khu bị nổ thì không ảnh hưởng đến những khu khác. Chuyện đó đã xảy ra năm 1936. Vụ nổ đã gây rất nhiều thiệt hại cho những khu khác. May là họ dập được khi lửa mới chớm lan sang các dãy nhà khác”.

Nhà máy đóng cửa năm 1974, sau đó được Viện bảo tồn duyên hải (Conservatoire du littoral) mua lại năm 2001. Khu công nghiệp nổi tiếng ô nhiễm một thời, giờ trở thành nơi cư trú của nhiều loài chim hiếm.

Trong công viên còn lại một dãy nhà ghép và một tòa nhà khác. Đó là những máy nghiền bột cũ, may mắn được giữ lại. Viện bảo tồn duyên hải trùng tu một phần và bên trong, họ dựng hai mô hình để khách tham quan có thể hình dung. Sau năm 1830 thì có hệ thống đá mài lớn nên khối lượng nhiều hơn. Và kể từ những năm 1880, nhà máy sản xuất thuốc nổ”.

Chỉ vào những bệ đá lớn, lỗ chỗ bên trong, ông Jacques Lemaire bảo “vẫn đùa với khách du lịch rằng đây là những miếng pho-mát gruyère hóa thạch. Đó là bệ của các bể chứa axit sunfuric, axit ditric và nitric”.

Theo ông Jacques Lemaire, nếu đi hết những lối mòn trong công viên sẽ mất khoảng 10 km. Chặng đường không chỉ đưa khách tham quan đến với thiên nhiên mà còn là hành trình khám phá lịch sử. Trong công viên có bia tưởng nhớ nạn nhân hai vụ nổ ở Nhà máy thuốc súng. Xưởng 104 bị nổ chiều ngày 16/11/1936 khiến 53 người chết và hơn 200 người bị thương. Bốn năm sau, ngày 04/04/1940, một vụ nổ khác làm 11 người chết.

Công lao của những người lính thợ Đông Dương trong Thế Chiến II được ghi trên bia gắn trên tường bảo tàng trong công viên. Theo dự kiến, một tấm bia khác ghi công những người lính thợ Đông Dương trong Thế Chiến I được gắn bên cạnh vào cuối năm 2022.

Thế Chiến I : Lính thợ Việt Nam trong Nhà máy thuốc súng Saint-Chamas, Pháp

Lính thợ Đông Dương dưới sự chỉ huy của hạ sĩ quan Paoli tại Salin-de-Giraud, miền nam Pháp, trong Thế Chiến I. Ảnh đươc đăng trên trang delcamp.net do nhà nghiên cứu Jacques Lemaire cung cấp.
Lính thợ Đông Dương dưới sự chỉ huy của hạ sĩ quan Paoli tại Salin-de-Giraud, miền nam Pháp, trong Thế Chiến I. Ảnh đươc đăng trên trang delcamp.net do nhà nghiên cứu Jacques Lemaire cung cấp. © Delcamp.net

Chủ Nhật 07/11/1915, con tầu Latouche-Tréville chở 994 công nhân Đông Dương xuất phát từ cảng Hải Phòng cập cảng Marseille. Họ nằm trong số những người đầu tiên trên 90.000 lính tập và lính thợ đến chung tay giúp "Mẫu quốc" trong Thế Chiến I cho đến khi hồi hương vào những năm 1919-1920 sau khi thỏa thuận đình chiến được ký ngày 11/11/1918.

QUẢNG CÁO

Lực lượng này được phân chia về nhiều địa phương ở vùng Provence, miền nam Pháp, trong đó Saint-Chamas là nơi đón nhiều lính thợ Đông Dương nhất, 1.287 người tính đến ngày 01/04/1918.

Saint-Chamas là một thành phố nhỏ, nằm bên bờ Ao Berre (Etang de Berre), đầm nước mặn lớn thứ hai châu Âu, nơi có Nhà máy Thuốc súng Quốc gia (La Poudrerie de Saint-Chamas) nổi tiếng. Nhà máy không ngừng được mở rộng để sản xuất các loại bột thuốc súng và pháo. Từ diện tích 1,5 hecta khi được vua Louis XIV thành lập năm 1690, nhà máy mở rộng thành 60 hecta vào năm 1905 và tăng thêm hơn hai lần, thành 135 hecta, vào năm 1917 để phục vụ chiến tranh, do đó liên tục cần nhân lực.

Bà Brigitte Sabattini, chuyên gia về di sản, giảng viên đại học Aix-Marseille, giải thích :

« Lính thợ Đông Dương cập cảng Marseille và đến khu tập trung lao động thuộc địa. Đây là đơn vị chịu trách nhiệm lập các nhóm nhân công, gồm ít nhất là 30 người, theo binh luật. Có nghĩa là những người lính thợ này nằm trong khuôn khổ quản lý của các công chức từ thuộc địa hồi hương hoặc các cựu chiến binh không còn khả năng phục vụ quân đội vì tuổi già hoặc là thương binh ».

 

1/3
Một nhân viên văn phòng người Việt thuộc đội 23 sau giờ làm việc. Bưu thiếp trong bộ sưu tập của Jacques Lemaire, Saint-Chamas, Pháp.
Nhà máy thuốc súng Saint-Chamas (La Poudrerie nationale de Saint-Chamas), trong những năm 1914-1918. Bưu thiếp trong bộ sưu tập của ông Jacques Lemaire, Saint-Chamas, Pháp.
Cổng vào Nhà máy thuốc súng Saint-Chamas trong giai đoạn Thế Chiến I. Bưu thiếp trong bộ sưu tập của Jacques Lemaire, Saint-Chamas, Pháp.
Một nhân viên văn phòng người Việt thuộc đội 23 sau giờ làm việc. Bưu thiếp trong bộ sưu tập của Jacques Lemaire, Saint-Chamas, Pháp. © © Jacques Lemaire

 

Những công nhân cần cù

Theo báo cáo ngày 08/08/1916 của thanh tra G. du Vaure gửi đến chủ tịch Ủy ban Hỗ trợ Lao động Đông Dương, có 442 người Đông Dương làm việc ở nhà máy thuốc súng Sain-Chamas, « trong đó có 204 người Nam Kỳ, 218 người Bắc Kỳ », số còn lại là người Cam Bốt nhưng cha mẹ là người Nam Kỳ. Họ được bố trí ăn ở « trong hai khu vực tách biệt, cách nhau 5 km ». Nhóm thứ nhất « gồm 302 người sống trong một tòa nhà lớn bằng gạch 4 tầng, được gọi là ‘le Moulin’ (tạm dịch : Nhà máy xay) ». Nhóm thứ hai gồm « 120 người sống trong khu nhà phụ của xưởng sản xuất lưu huỳnh đặc (sulfuric), được gọi là ‘Oleum’, là những dãy nhà bằng gạch lợp ngói ».

Trong một báo cáo khác của thanh tra Bosc, việc biến những cơ sở có sẵn thành nơi ở cho công nhân Đông Dương cũng được nhắc đến, theo giải thích của nhà sử học Brigitte Sabattini :

« Thanh tra Bosc, công chức cấp cao từ Đông Dương trở về, nói rất nhiều đến những khu được biến thành nhà tập thể cho người lao động, như những địa điểm đã có từ trước, như trường hợp của nhà máy xay mà chỉ cần lắp thêm giường, làm nhà bếp. Báo cáo cũng nêu rất nhiều thông tin như có đủ lương thực không, có nghĩa là họ rất chú ý đến điều kiện vật chất cho lính thợ. Khi không có đủ chỗ cho khoảng 1.000 công nhân, họ bắt đầu xây những khu tập thể mới ».

Tuy nhiên, những dãy nhà ở khu Moulin hiện không còn vết tích, trong khi những dấu vết cuối cùng từ những dãy nhà khu tập thể được xây sau này ở trên triền đồi nhìn xuống toàn cảnh khu nhà máy thuốc súng và Ao Berre, cũng sắp bị phá. Ông Jacques Lemaire, cựu chủ tịch Hội Những người bạn của Saint-Chamas xưa, giải thích :

« Tôi tìm thấy một số hình ảnh, tôi phóng to một ảnh cho thấy những ngôi nhà nằm ở khu vực Moulin. Nhưng hiện giờ chẳng còn vết tích gì. Còn những chỗ ở được xây để dành riêng cho lính thợ, theo báo cáo của thanh tra Bosc năm 1916, đó là những dãy nhà ở giữa hai thành phố Saint-Chamas và Miramas nhưng nằm trên đất của Miramas. Khi tôi bắt đầu nghiên cứu về lính thợ Đông Dương trong Thế Chiến I ở Saint-Chamas, tôi đã đến đây để chụp ảnh xem còn lại gì. Quả thật tôi đã làm đúng vì sắp tới họ sẽ phá hết những dãy nhà này để xây quần thể khách sạn ».

1/3
Khu tập thể, nằm giữa Saint-Chamas và Miramas, được xây để tiếp nhận lính thợ Đông Dương làm việc tại Nhà máy thuốc súng Saint-Chamas, Pháp. Khu vực sắp bị phá để xây quần thể khách sạn. Ảnh do Jacques Lemaire cung cấp.
Khu tập thể, nằm giữa Saint-Chamas và Miramas, được xây để tiếp nhận lính thợ Đông Dương làm việc tại Nhà máy thuốc súng Saint-Chamas, Pháp. Khu vực sắp bị phá để xây quần thể khách sạn. Ảnh do Jacques Lemaire cung cấp.
Toàn cảnh khu tập thể "Gia Dinh" nằm giữa Saint-Chamas và Miramas, được xây để tiếp nhận lính thợ Đông Dương làm việc tại Nhà máy thuốc súng Saint-Chamas, Pháp. Khu vực sắp bị phá để xây quần thể khách sạn. Ảnh do Jacques Lemaire cung cấp.
Khu tập thể, nằm giữa Saint-Chamas và Miramas, được xây để tiếp nhận lính thợ Đông Dương làm việc tại Nhà máy thuốc súng Saint-Chamas, Pháp. Khu vực sắp bị phá để xây quần thể khách sạn. Ảnh do Jacques Lemaire cung cấp. © © Jacques Lemaire

Nhìn chung, các giám đốc nhà máy thuốc súng ở Saint-Chamas hay ở Salin-de-Giraud đều rất khen ngợi năng suất lao động của công nhân Đông Dương. Dĩ nhiên không tránh được những bất đồng về văn hóa, lối sống, theo báo cáo của thanh tra Bosc. Bà Brigitte Sabattini giải thích :

« Báo cáo cũng nêu có những sự cố giữa nhân viên quản lý và người lao động vì nhân viên quản lý không nắm được những thói quen của người Đông Dương nên không đủ khả năng quản lý họ. Chuyện này đã xảy ra ở Salin-de-Giraud, ở Sorgues, thậm chí một sự cố ở Salin-de-Giraud được so sánh như một cuộc nổi dậy. Một nhóm công nhân Đông Dương được chuyển từ Tarbes đến Salin-de-Giraud, thế nhưng điều kiện sống của họ ở Tarbes tốt hơn rất nhiều, họ sống ở trung tâm thành phố nên có thể ra ngoài gặp gỡ hẹn hò với các cô gái Pháp, trong khi Salin-de-Giraud nằm tận cuối vùng Camargue, xa xôi hẻo lánh. Ngoài ra còn có va chạm giữa lính thợ đến từ Nam Kỳ với người đến từ Bắc và Trung Kỳ. Vì thế biện pháp kiểm soát đã được tái lập để tránh các vấn đề và để kiểm tra điều kiện sinh hoạt và làm việc ».

Tuy nhiên, cũng có trường hợp hãn hữu là công nhân thuộc địa bị những kẻ côn đồ người Pháp sát hại, như trường hợp của Phan Van Loi bị giết ngày 08/05/1917, được bà Sabattini thuật lại :

« Ở Sorgues đã xảy ra một vụ án rất nghiêm trọng. Phan Van Loi, người xấu số, bị một nhóm côn đồ ngoại ô sát hại. Theo biên bản ghi chép rất chi tiết của cảnh sát, có ba thanh niên, một gái, hai trai, buồn vì chẳng có gì để chơi ở Marseille, nên đã lấy tầu đi Avignon, nhưng rồi lại có mặt ở Sorgues. Họ thấy một người An Nam đi qua trại, thế là họ nổi hứng trấn lột. Họ lôi nạn nhân vào một chỗ rồi giết chết, cướp đi khoản tiền chẳng đáng là bao, chỉ có 20 franc ».

Tìm lại đúng tên cho những người thợ Đông Dương « Chết vì nước Pháp »

Phan Van Loi được ghi công « Chết vì nước Pháp » như 88 người Việt Nam khác được khắc tên trên đài tưởng niệm dựng trong nghĩa trang Saint-Pierre ở Aix-en-Provence. Có 8 người thợ Đông Dương qua đời tại bệnh viện Saint-Chamas từ 1916 đến 1919, chủ yếu do sốt thương hàn, viêm phổi, theo thống kê của hai nhà nghiên cứu Brigitte Sabattini và Jacques Lemaire.

« Tôi có danh sách được ghi trên công trình tưởng niệm lính thợ Đông Dương ở Aix, bà Brigitte Sabattini giải thích, nhưng ngoài ra không có thêm thông tin gì khác. Tôi không rõ là để có được danh sách này cũng như công trình tưởng niệm, công việc được tiến hành như thế nào. Nhờ ghi lại và tìm hiểu những họ tên được ghi trên đó, tôi nhận ra rằng đó là những người Đông Dương chết không chỉ vì cúm Tây Ban Nha thời đó ở Aix trong lúc chờ hồi hương, mà còn có những người chết ở Saint-Chamas, Avignon, Sorgues, Salin, Arles.

Có những tên mà tôi tìm được tài liệu, nhưng có nhiều tên tôi không tìm được thông tin. Chính Jacques Lemaire là người gợi ý có thể tìm trong Sổ hộ tịch ở thành phố Saint-Chamas. Khi đối chứng, tôi phát hiện ra có những tên được ghi khác đi hoặc phát hiện ra nhiều trường khác. Hiện giờ tôi đã có danh sách đầy đủ những người lính thợ Đông Dương chết ở Saint-Chamas trong Thế Chiến thứ nhất ».

1/4
Bà Brigitte Sabattini, giảng viên trường đại học Aix-Marseille và ông Jacques Lemaire, cựu chủ tịch Hội Những người bạn của Saint-Chamas xưa tra cứu họ tên của những người lính thợ Việt Nam chết tại Saint-Chamas, Pháp, trong Thế Chiến I. Ảnh chụp ngày 09/08/2021.
Sổ hộ tịch của thành phố Saint-Chamas, Pháp, năm 1917 ghi tên một số người lính thợ Đông Dương chết trong Thế Chiến I. Ảnh chụp ngày 09/08/2021.
Lé Van Tée (tên bị viết sai chính tả), một người lính thợ Đông Dương qua đời ở Saint-Chamas, ghi trong Sổ hộ tịch của thành phố Saint-Chamas. Ảnh chụp ngày 09/08/2021.
Le Van Quyen, một người lính thợ Đông Dương qua đời ở Saint-Chamas, ghi trong Sổ hộ tịch của thành phố Saint-Chamas. Ảnh chụp ngày 09/08/2021.
Bà Brigitte Sabattini, giảng viên trường đại học Aix-Marseille và ông Jacques Lemaire, cựu chủ tịch Hội Những người bạn của Saint-Chamas xưa tra cứu họ tên của những người lính thợ Việt Nam chết tại Saint-Chamas, Pháp, trong Thế Chiến I. Ảnh chụp ngày 09/08/2021. © © RFI / Thu Hằng

Họ phát hiện một vài lỗi chính tả về tên người quá cố được khắc trên công trình tưởng niệm ở nghĩa trang Saint-Pierre ở Aix-en-Provence và cổng thông tin dữ liệu Mémoire des Hommes của bộ Quốc Phòng. Theo ông Jacques Lemaire, phải tra cứu bản gốc mới có thể nhìn được rõ hơn nhầm ở chỗ nào, vì hiện giờ các tài liệu cổ dễ hỏng, đều được chuyển sang dạng microfilm. Đề nghị được tra cứu bản gốc mà họ gửi từ lâu cuối cùng đã được chấp nhận, đúng ngày trả lời phỏng vấn RFI Tiếng Việt 09/08/2021 :

« Điều mà chúng tôi vẫn tìm, đó là các cuốn Sổ hộ tịch của thành phố Saint-Chamas từ năm 1916, thời điểm những người lính Đông Dương đầu tiên đến cho đến năm 1919 khi họ rời đi. Dù Thế Chiến I bắt đầu năm 1914 nhưng lúc đầu chưa có lính tập cũng như lính thợ Đông Dương. Trong những cuốn sổ hộ tịch này, chúng tôi tìm thông tin khai tử những người mang tên Việt và dĩ nhiên chúng tôi tìm được số đăng kí.

Giờ chúng tôi đi đến tòa thị chính, bà thư ký sẽ cho chúng tôi tra cứu các cuốn Sổ hộ tịch từ năm 1916 đến 1919, chúng tôi hy vọng tìm thấy trong đó những thông tin phù hợp về những người xấu số qua đời ở Saint-Chamas ».

Trong lúc tra cứu, họ đã tìm thêm được tên một người Việt qua đời được ghi trong Sổ hộ tịch ở Saint-Chamas. Trước đó, bà Sabattini đã tìm được rất nhiều văn bản ghi lại nghi thức tang lễ, trình tự thông tin người quá cố được ghi trên bia mộ làm sao cho phù hợp với tập tục của người Việt :

« Có rất nhiều hướng dẫn rõ ràng, cụ thể bởi vì trước đó có một thông tư nhà nước nêu mọi thông tin cần thiết để an táng những người Đông Dương qua đời theo đúng tập tục nước họ. Một điều quan trọng được đặc biệt nhấn mạnh là phải biết rõ liệu cha mẹ của người quá cố còn sống hay không, rồi tư thế người chết được đặt trong quan tài như nào… Tuy nhiên, theo những thông tin ghi lại trong Sổ hộ tịch, có những tên không thể nào đọc được, hoặc không có tên cha mẹ hoặc cha mẹ còn sống hay đã chết ».

Saint-Chamas và Salin-de-Giraud hàng năm luân phiên tổ chức tưởng niệm những người lính thợ Đông Dương « Chết vì nước Pháp » trong Thế Chiến II. Trên tường nhà triển lãm trong khu bảo tồn thiên nhiên La Poudrerie de Saint-Chamas gắn một tấm bia ghi công « những lính thợ Đông Dương, phần lớn bị buộc đến Pháp, làm việc không lương ở Nhà máy thuốc súng Saint-Chamas từ 1939-1945 », nhưng lại thiếu những người đã phục vụ trong những năm 1916-1919. Đây chính là mục tiêu cuối cùng của hai nhà nghiên cứu dày công bảo vệ công lao của những người lính thợ Đông Dương thời Thế Chiến I :

« Chúng tôi có nhiều thông tin về những người này. Chúng tôi muốn lập một bia tưởng niệm khác bên cạnh tấm bia tưởng niệm những người lính thợ Đông Dương chết trong Thế Chiến II đã được gắn ở nhà triển lãm trong khu bảo tồn La Poudrerie de Saint-Chamas. Có thể không phải là vào ngày 11/11/2021 mà có thể là năm 2022. Tên của những người lính thợ Việt Nam qua đời ở vùng Provence đã được tạc trên công trình kỉ niệm ở nghĩa trang Aix, sắp tới sẽ được ghi trên bia  tưởng niệm ở Saint-Chamas ».

Những người lính Việt Nam “Hy sinh vì nước Pháp” trong Thế Chiến I

Bà Brigitte Sabattini, giảng viên đại học Aix-Marseille, tại nghĩa trang quân đội Luynes, ngoại ô Aix-en-Provence, tháng 06/2019.
Bà Brigitte Sabattini, giảng viên đại học Aix-Marseille, tại nghĩa trang quân đội Luynes, ngoại ô Aix-en-Provence, tháng 06/2019. RFI / Tiếng Việt

Đông Dương gửi sang Mẫu quốc khoảng 43.000 lính tập và 49.000 lính thợ trong Thế Chiến I và rất nhiều người đã “Hy sinh vì nước Pháp” (Morts pour la France). Ngay từ tháng 12/1917, Hội Ký ức Đông Dương (Association du Souvenir Indochinois) được thành lập để chăm sóc phần mộ của 814 liệt sĩ ở Marseille và 230 liệt sĩ ở Fréjus, miền nam nước Pháp.

QUẢNG CÁO

Năm 1966, khi nghĩa trang quốc gia Luynes (Nécropole nationale de Luynes), ở ngoại ô thành phố Aix-en-Provence, được quy hoạch, toàn bộ phần mộ lính Việt Nam ở Fréjus được đưa về yên nghỉ tại khu B của nghĩa trang, nằm trong số 11.424 quân nhân hy sinh vì nước Pháp trong hai cuộc Thế Chiến. Mười hai mộ khác ở nghĩa trang Saint-Pierre, thành phố Aix-en-Provence, cũng được đưa về nghĩa trang Luynes nhưng bị phân tán trong hai khu C và D.

Bà Brigitte Sabattini, chuyên gia về di sản, giảng viên đại học Aix-Marseille, đã dẫn phóng viên RFI Tiếng Việt thăm những ngôi mộ nhỏ, sơn trắng, đều thẳng tắp trên bãi cỏ xanh rì. Trong suốt một thế kỷ, họ vẫn là những người lính vô danh, dù họ tên và ngày mất được ghi trên bia.

PV. Sabattini - Lính Đông Dương

RFI : Bà có thể giới thiệu về khu mộ những người lính Việt Nam ở nghĩa trang Luynes, cũng như đài tưởng niệm công lao của họ ở nghĩa trang Saint-Pierre ở Aix-en-Provence ?

Brigitte Sabattini : Ở nghĩa trang Luynes có rất nhiều mộ của lính tập Đông Dương hy sinh tại Fréjus (trước được an táng ở nghĩa trang của trại Gallieni, gần chùa Hồng Hiên) trong Thế Chiến I. Cần biết là cùng với 43.000 lính tập, còn có 48.000 lính thợ Đông Dương đến Pháp làm việc. Và Ủy ban Ký ức Đông Dương cũng được thành lập nhằm bảo vệ, chăm sóc những phần mộ những người lính “Hy sinh vì nước Pháp”. Họ chết trong những nhà máy, ngay tại nơi làm việc, trong giai đoạn Thế Chiến I.

Còn về đài tưởng niệm liệt sĩ Đông Dương tại nghĩa trang Saint-Pierre ở Aix-en-Provence, người ta ghi họ tên của những người chết trong các nhà máy ở hai vùng Bouches-du-Rhône và Vaucluse trong Thế Chiến I.

Trên bốn mặt của đài tưởng niệm ghi tên 89 liệt sĩ Đông Dương. Ở mỗi mặt, tên của họ được ghi thành hai cột. Ở mặt thứ nhất là những người lính thợ từng làm việc tại nhà máy thuốc súng Saint-Chamas. Mặt tiếp theo ghi tên những liệt sĩ từng làm việc ở Trung tâm Không quân Istres. Và cuối cùng là một số người chết ở Aix do vào tháng 04/1919, ở trại quân y, có lệnh tập trung lính thợ Đông Dương chờ hồi hương, một nửa trong số họ đến từ Saint-Chamas, nửa còn lại từ Salers-sur-Saône, ở thung lũng sông Rhône và những người này đã mang bệnh cúm đến. Tổng cộng có 13 lính thợ chờ hồi hương nhưng cuối cùng bị chết vì cúm ở bệnh viện Aix từ cuối năm 1918 đến đầu năm 1919.

RFI : Vậy lính thợ Đông Dương làm những nhiệm vụ gì ở vùng Bouches-du-Rhône ?

Brigitte Sabattini : Đa số lính thợ Đông Dương làm việc trong các nhà máy thuốc súng trên khắp nước Pháp. Còn tại vùng Bouches-du-Rhône, họ làm việc chủ yếu trong các nhà máy thuốc súng ở Saint-Chamas, Salin-de-Giraud và Sorgues. Song song đó, họ cũng làm việc trong những xưởng sản xuất thuốc nổ để gửi ra chiến trường.

Ngược lại, ở trường không quân Istres, lính thợ Đông Dương làm việc chủ yếu trong các xưởng sửa chữa máy bay. Những người lính thợ Đông Dương đầu tiên đến Pháp được giao làm thợ sơn, đơn giản là trong không quân, họ cần đến thợ chuyên môn, sơn cánh và vỏ máy bay. Và hiện còn nhiều tài liệu về chủ đề này. Bên cạnh những ngôi mộ lính thợ ở Istres là mộ những người lính ở Salin-de-Giraud.

Ở khu thứ ba là những người chết ở Avignon vì ở đó có bệnh viện chuyên tiếp nhận bệnh nhân từ Sorgues. Ngoài ra, còn có những người lính thợ làm việc trong lĩnh vực xây dựng và trong số họ, một số người chết vì tai nạn đường sắt, bị xe goòng nghiền, nhưng đa số bị chết vì các bệnh về đường hô hấp.

Tôi từng giới thiệu trong một bài nói chuyện riêng về trường hợp của Phan Van Loi, đang yên nghỉ ở nghĩa trang Luynes. Ông Phan Van Loi xấu số này làm việc ở xưởng thuốc súng Sorgues, và bị một nhóm thanh niên từ Marseille giết chết chỉ để cướp ví tiền mà bên trong có mỗi 10 franc.

RFI : Trong Thế Chiến thứ nhất, có khoảng bao nhiêu lính thợ Đông Dương hy sinh trong vùng ?

Brigitte Sabattini : Cả một cơ quan đặc trách được thành lập để kiểm soát lính tập và lính thợ Đông Dương. Vào năm 1919, khi bộ Thuộc Địa được yêu cầu cung cấp số người chết, cơ quan quản lý lính thợ Đông Dương cho biết thiệt hại về người rất thấp, chiếm khoảng 3,6% trên tổng số hơn 48.000 lính thợ Đông Dương đến Pháp, có nghĩa là gần 2.000 người chết. Và theo tài liệu còn được lưu lại, tỉ lệ thấp đó cho thấy cơ quan thanh tra đã cố duy trì điều kiện sống tốt nhất có thể cho lính thợ Đông Dương.

RFI : Số lính tập và lính thợ Đông Dương đến Pháp trong Thế Chiến I có phải là những người tình nguyện ?

Brigitte Sabattini : Tất cả những tài liệu mà chúng tôi tìm được, đặc biệt là những sắc lệnh từ đầu giai đoạn đó, đều nhấn mạnh đến việc đó là những lính tập và lính thợ tình nguyện. Tất cả đều được ghi rõ trong các sắc lệnh, từ lệnh đầu tiên được ký vào cuối năm 1915. Cũng cần lưu ý là nếu như nhiều thành viên hoàng tộc An Nam tham gia tiểu đoàn lính tập 16 hoặc trong những tiểu đoàn khác, đó là vì họ muốn làm gương để thu hút tình nguyện viên.

Do đó, trái với những lính thợ và nhân công trong Thế Chiến II, lực lượng lính tập, lính thợ và trợ lý y tế Đông Dương đều tình nguyện đến Pháp trong Thế Chiến I. Nhân tiện, tôi muốn nói về những trợ lý y tế và bác sĩ Đông Dương, họ rất được coi trọng, làm việc trong hầu hết các bệnh viện ở hậu phương. Họ làm tròn bổn phận của lương y. Điều này được thấy qua việc trong số những người chết năm 1919, có rất nhiều y sĩ, bác sĩ Đông Dương bị mắc bệnh lao khi điều trị cho bệnh nhân.

RFI : Có một số lỗi chính tả về tên của các liệt sĩ Đông Dương được ghi trên mộ. Làm thế nào bà và nhóm nghiên cứu có thể xác định được thân thế của những liệt sĩ này ?

Brigitte Sabattini : Về công trình này, chúng tôi đã tiến hành một cuộc điều tra về thân thế và sự nghiệp của mỗi người và dĩ nhiên chúng tôi gặp một số vấn đề về tên tuổi. Chúng tôi đã ghi lại điểm khác biệt giữa những gì được ghi trên bia mộ và thông tin tìm được trên những tấm thẻ về mỗi người - hiện có thể truy cập được trên trang Mémoire des Hommes của bộ Quốc Phòng, cũng như từ sổ khai tử.

Trước tiên, chúng tôi tìm tên của những liệt sĩ Đông Dương trên trang Mémoire des Hommes. Sau đó, vì có địa điểm họ qua đời nên chúng tôi nghĩ rằng, đơn giản hơn là nên tìm thông tin ở sổ khai tử, nơi lưu lại tất các thông tin về người quá cố. Và trong sổ khai tử đó, tên tuổi của người chết được ít nhiều ghi đúng chính tả.

Đặc biệt, chúng tôi còn tìm được những thông tin liên quan, như người quá cố còn họ hàng thân thích hay không. Vì bộ phận khai tử phải gửi đến tất cả các bệnh viện hoặc nơi chịu trách nhiệm mai táng những chỉ thị liên quan đến truyền thống, nghi lễ tổ chức đám tang cần được tôn trọng vì nguyên quán của mỗi người quá cố có nghi thức tang lễ khác nhau.

Có một điểm đáng chú ý, đó là trong một số văn bản liên quan đến quy trình kiểm soát lính Đông Dương, đội ngũ thanh tra nhận thấy nhiều chỉ thị về tang lễ đã không được tuân thủ. Chúng tôi tìm thấy một số báo cáo liên quan đến Marseille, cho thấy một số bệnh viện không được thông báo về những thông tin cần được ghi trên mộ của liệt sĩ Đông Dương. Vì thế, tại nghĩa trang Luynes, chúng ta có thể thấy nhiều mộ lính Đông Dương được đánh dấu Công Giáo, thậm chí là Hồi Giáo.

Điều chắc chắn, đó là chúng tôi đang tiến hành nghiên cứu lại và sẽ thông báo về tất cả những thông tin mới, phát hiện mới về điểm này, mà tôi hy vọng sẽ đạt được trong tương lai gần.

RFI Tiếng Việt xin chân thành cảm ơn bà Brigitte Sabattini, chuyên gia về di sản, giảng viên đại học Aix-Marseille (Aix-Marseille Université, AMU).

Đài tưởng niệm công lao những người lính Đông Dương, nghĩa trang Saint-Pierre, Aix-en-Provence.
Đài tưởng niệm công lao những người lính Đông Dương, nghĩa trang Saint-Pierre, Aix-en-Provence. RFI / Tiếng Việt

Chân dung người lính Việt Nam trong Thế Chiến I (1914-1918)

Đội bóng của lính Đông Dương trong Thế Chiến I (1914-1918).
Đội bóng của lính Đông Dương trong Thế Chiến I (1914-1918). Carte postale

Lính Đông Dương, đặc biệt là người Việt, thường được nhắc đến là chiến đấu cùng quân đội Pháp trong Thế Chiến II. Nhưng rất nhiều người Đông Dương đã có mặt trên chiến trường châu Âu trong Thế Chiến I (1914-1918).

QUẢNG CÁO

Thậm chí, họ còn đông hơn cả số lượng lính Đông Dương trong Thế Chiến II do trong giai đoạn này, Pháp ký thỏa thuận định chiến với quân Đức nên phần lớn số lính Đông Dương được dự kiến gửi sang chiến trường châu Âu đã không đi được hoặc bị gửi về nước.

Trong giai đoạn Thế Chiến II, theo dự kiến có khoảng 75.000 lính thợ và lính tập Đông Dương được gửi sang Pháp nhưng cuối cùng chỉ còn 25.000 người. Con số này thấp hơn 1/4 so với con số hơn 93.000 người Đông Dương được đưa sang Pháp trong giai đoạn Thế Chiến I (1914-1918), trong đó gần một nửa là lính chiến đấu trực tiếp trên chiến trường.

Công lao của người lính Đông Đương được ghi công tại Vườn Nông Học Nhiệt Đới Paris (Jardin d’Agronomie Tropicale de Paris). Ngoài ra, còn có sáu công trình Ký Ức Đông Dương (Souvenir Indochinois), còn gọi là « tượng người lính An Nam chiến thắng » (Soldat annamite victorieux), được dựng ở Marseille, Aix-en-Provence, Montpellier, Tarbes, Bergerac và Toulouse.

Nhân kỷ niệm 100 năm kết thúc Chiến Tranh Thế Giới thứ nhất, RFI tiếng Việt đặt câu hỏi với sử gia Pierre Brocheux về những người lính Đông Dương, đặc biệt là lính Việt Nam, đã sát cánh cùng quân đội Pháp trên chiến trường châu Âu.

Hoàng đế Bảo Đại khánh thành khu nhà dành cho lính Đông Dương trong bệnh viện Val-de-Grâce, Paris, ngày 09/03/1927.
Hoàng đế Bảo Đại khánh thành khu nhà dành cho lính Đông Dương trong bệnh viện Val-de-Grâce, Paris, ngày 09/03/1927. BNF/Agence Rol

RFI : Thưa sử gia Pierre Brocheux, lính Việt Nam tham gia vào Chiến Tranh Thế Giới thứ nhất, sát cánh với quân đội Pháp. Họ được đưa đến những mặt trận nào ở châu Âu ?

Pierre Brocheux : Phía bộ tham mưu Pháp có một định kiến về lính Việt Nam. Thậm chí ban đầu, họ còn không muốn đưa lính Việt Nam sang Pháp vì sợ người Việt không chịu được giá lạnh vào mùa đông, hoặc sợ họ ngại đạn lửa trên tuyến đầu, không xông pha ngoài mặt trận. Lính Đông Dương còn bị so sánh với người Sénégal, được gọi là « lực lượng đen », gồm hơn 200.000 người.

Cuối cùng, sau khi chấp nhận lính Đông Dương vào năm 1915, rất nhiều người trong số này lại không được đưa ra tiền tuyến, thậm chí còn không có mặt trên chiến trường. Nhưng điều này không ngăn cản họ đóng góp trong chiến tranh. Vì có khoảng 8.000 người trong số họ được tuyển làm lái xe tải chở đạn dược, cung cấp đạn dược cho chiến trường. Ngoài ra, họ còn lái xe cứu thương và cũng xuất hiện trên tuyến đầu để tìm người bị thương.

Rất nhiều lính thợ Việt Nam cũng được đưa sang Pháp vì công nhân Pháp được điều động ra chiến trường. Vì vậy, phụ nữ phải tham gia vào sản xuất công nghiệp chiến tranh và được lao động Việt Nam hỗ trợ, từ đó mà xuất hiện từ « lính thợ ». Lính thợ cũng được tổ chức thành trung đoàn, đại đội… và mặc đồng phục như những quân nhân thực thụ. Nhưng phần lớn số họ làm việc trong các nhà máy ở hậu phương.

Tóm lại, phần lớn là lính thợ, nhưng cũng có rất nhiều lính chiến đấu trên chiến trường. Thậm chí, có người nói là nhiều quân nhân Việt Nam đã hy sinh trong trận đánh lớn Verdun, nhưng xác của lính Việt tử trận bị vùi cùng lính Bắc Phi. Vì thế mà sau này đóng góp của họ họ bị lu mờ.

RFI : Ngoài ra lính Đông Dương còn được điều tới chiến trường nào khác không ?

Pierre Brocheux : Nhiều lính Đông Dương có mặt trong các đơn vị chiến đấu không chỉ ở Pháp, mà sau đó, họ còn được cử sang các nước vùng Balkan để chiến đấu chống quân Bulgari, đồng minh của Đức, và chống lực lượng Bônsêvic vào năm 1917, lúc diễn ra Cách Mạng Bônsêvic Nga lan sang vùng Trung Âu và Balkan.

Ngoài ra, lính Đông Dương còn được điều đến chống người Druze gốc Ả Rập theo đạo Hồi sống ở phía bắc Syria-Liban - người Druze không được người theo đạo Hồi khác coi trọng. Pháp được ủy quyền quản lý Liban và Syria, cùng lúc với việc Anh Quốc được quản lý Palestine, Jordani, có nghĩa là Pháp-Anh chia sẻ việc cai quản một phần đế chế Ottoman ngày trước. Người Druze nổi dậy vào khoảng năm 1925 khi các đội quân Pháp đến Trung Đông, mà người ta vẫn gọi là « Cuộc nổi dậy của người Druze », kéo dài khoảng 2-3 năm. Và lính Đông Dương được cử đến đây để chống người Druze.

Trên mặt trận Balkan, tất cả sĩ quan Pháp đều đánh giá lính Đông Dương là những người lính giỏi, làm tốt nhiệm vụ được giao. Lời đánh giá này được tướng Weygand, chỉ huy trưởng quân đội Pháp trong những năm 1939-1940, viết trong cuốn sách về Lịch sử quân đội Pháp (Histoire de l’armée français, 1938), trong đó có một phần nói về Quân đội thuộc địa (L’armée coloniale) và dành một chương cho lính Đông Dương. Ông đánh giá họ là những người lính tuyệt vời nếu họ được chỉ huy tốt.

Lính Bắc Kỳ cũng được điều đến Maroc để trấn áp cuộc nổi dậy ở vùng Rif (miền Bắc Maroc). Ngoài ra, họ còn được gửi đến Vladivostok (miền Viễn Đông Nga). Khi cuộc Cách Mạng Nga nổ ra năm 1917, phe Bônsêvic lên nắm quyền và thành lập nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Xô Viết Liên Bang Nga. Lính Đông Dương có mặt tại Vladivostok để chống phe Bônsêvic, trong đạo quân viễn chinh quốc tế gồm người Anh, Pháp, Mỹ, Nhật.

Lính Đông Dương ở Saint-Raphael (miền nam Pháp).
Lính Đông Dương ở Saint-Raphael (miền nam Pháp). BNF/Agence Rol

RFI : Lính Việt Nam được đưa sang châu Âu là ai ? Quá trình tuyển mộ diễn ra như thế nào ?

Pierre Brocheux : Trên nguyên tắc, phần lớn là tình nguyện viên, có nghĩa là họ nhận được một khoản tiền ban đầu, nên có thể tạm gọi là « tình nguyện viên », tôi sẽ giải thích tại sao. Sau đó, họ được lĩnh lương, dù không cao. Lương của quân nhân Pháp cũng chẳng khả quan hơn. Rồi họ còn có trợ cấp cho gia đình trong trường hợp họ bị thương, thậm chí bị chết.

Trên nguyên tắc, quá trình tuyển quân diễn ra ở các làng, cũng có thể ở thành phố, và được giao cho thân hào trong làng đảm trách. Dĩ nhiên là thân hào xoay sở theo cách của họ và tình trạng hối lộ rất cao. Ví dụ, nếu một người đàn ông thuộc gia đình giàu có, người này hối lộ quan để không bị đăng lính. Vậy là quan chức trong làng phải đi tìm những người nghèo nhất, không có đất cày, không có việc làm… và giải thích cho những nông dân này là họ sẽ được lĩnh trước một khoản tiền. Viễn cảnh cũng được vẽ ra là khi trở về họ có thể sẽ trở thành thân hào, nếu có huân chương, họ sẽ được lĩnh trợ cấp quân nhân hoặc họ có thể vào làm trong ngạch hành chính.

Dĩ nhiên, ngoài những người « được liên lạc »« bị ép » theo một số ý kiến gây tranh cãi vẫn gọi như thế, nhưng thực ra họ không bị như vậy, còn có rất nhiều tình nguyện viên, thường là phiên dịch, thư ký, kế toán.

Đừng quên một điều là những người này, dù bị ép đi lính hay không, đều phải qua kỳ kiểm tra sức khỏe. Tại sao Pháp lại phải tuyển những người bị bệnh lao hoặc quá yếu ? Họ phải trải qua hai cuộc kiểm tra. Lần đầu ở trung tâm tuyển quân và ở vòng này, khá nhiều người đã bị loại. Khi đến bến cảng trước khi lên tầu sang Pháp, những người vượt qua vòng kiểm tra lần một được kiểm tra sức khỏe lần nữa.

Theo nhiều tài liệu lưu trữ, vào khoảng năm 1916 hoặc sau đó, trên tổng số 6.000 người đến cảng xuất phát, vài nghìn người đã bị loại trong đợt kiểm tra sức khỏe thứ hai. Đó là chuyện đã diễn ra, là thực tế và trái với những lời đồn đại.

Vậy tại sao lại có nhiều người tình nguyện ? Không phải chỉ có mỗi phiên dịch viên, hoặc người làm việc văn phòng, mà còn có nhiều tình nguyện viên khác vì họ muốn thoát cảnh đói. Chín trên 10 lính thợ đến từ tỉnh Thái Bình, một tỉnh đông dân ở Bắc Kỳ và rất nhiều người trong số đó không có đất cày.

RFI : Tại Pháp, điều kiện sống của người lính Đông Dương ra sao ? Họ được đối xử ra sao ? Và sau khi hết nghĩa vụ, họ làm gì ?

Pierre Brocheux : Thư từ trao đổi của những người lính này cho thấy điều kiện sống của họ rất đa dạng, rất khác nhau. Có thư nói rằng họ bị ngược đãi hoặc có nhiều thư viết rằng dù gì thì Pháp cũng yếu hơn Đức và Pháp sẽ không thắng trận.

Nhưng cũng có nhiều lá thư nói ngược lại. Họ được người Pháp đón rất chu đáo, như một bức thư viết : « Tôi được một gia đình Pháp đón và coi tôi như con trai họ », hoặc « Đồng đội của tôi tên là Joseph. Gia đình anh ấy đón tôi ». Một số lính thợ có bạn gái người Pháp.

Ví dụ, trong một bức thư được sử gia Kim Loan Vũ Hiến trích lại trong cuốn sách của bà, cho biết một hạ sĩ quan người Việt yêu một cô giáo tiểu học sống ở tỉnh. Vào năm 1919, khi được giải ngũ, người ta nói với ông rằng nếu về Đông Dương, ông sẽ tiếp tục giữ chức hạ sĩ quan trong quân đội, nhưng nếu vẫn quyết tâm cưới người phụ nữ đó, ông sẽ gia nhập lực lượng quân đội Pháp chính quốc nhưng bị mất quân hàm, chỉ còn là một quân nhân bình thường. Trong thư gửi một đồng đội khác ở Marseille, người đàn ông đó viết là đã bỏ chức vụ, ở lại Pháp và cưới người yêu.

Ngoài ra còn có một số bức thư khác mà tác giả cho biết là được chăm sóc rất cẩn thận trong bệnh viện khi họ bị ốm hoặc bị thương, rồi họ được các gia đình Pháp đón trong thời gian hồi phục.

Tuy nhiên, cũng có rất nhiều bức thư cho thấy, một cách chung chung là rất nhiều người Việt, với vị thế là người dân của một xứ bị đô hộ, mong Pháp thua trận. Nhưng khi Đức thất bại, người ta nhận thấy là lính Đông Dương không thể hiện niềm vui, nhưng khoảng một-hai năm sau đó, họ cũng thừa nhận là Pháp đã chiến thắng.

Lính thợ Đông Dương (1914-1918) yên nghỉ ở nghĩa trang Bagneux, ngoại ô Paris.
 Lính thợ Đông Dương (1914-1918) yên nghỉ ở nghĩa trang Bagneux, ngoại ô Paris. BNF/Agence Meurisse