Hà Vũ Trọng
Vài năm nay, trên báo có lan truyền về “Cột đá thiêng của đồng bào Cơ Tu” còn gọi là “cột đá A Zoi” hiện đặt ở đầu nguồn sông Bồ, thuộc xã Hồng Hạ, huyện A Lưới”, tỉnh Thừa Thiên - Huế, liên quan tới các truyền thuyết và thậm chí có huyền thoại của dân Cơ Tu về một người đàn ông tên A Zoi đã tạc ra nó. Trên thực tế, cột đá này được dân chài ở xã Hương Trà khi đánh cá đã phát hiện dưới sông và vớt lên bờ, niên đại của nó phải tính cách đây cả ngàn năm. Hiện cột đá nằm ở gần ngã tư sông, vốn từ xưa là vùng giao lộ buôn bán giữa hai miền ngược xuôi. Và do nằm ở tuyến du lịch sinh thái từ Huế tới A Lưới, nhờ vậy nó trở thành một điểm “du lịch tâm linh” của một số du khách hiếu kì của tỉnh Thừa Thiên, mà cả dân địa phương lẫn du khách vẫn thắp hương khấn vái và đặt tay lên cột đá để cầu điều may mắn và an lành.
Trước tiên có thể thấy đây là một trụ đá mà chất liệu hẳn là bằng sa thạch, cao khoảng 1.5 m; nếu tính luôn cả phần chân móng khoảng 0.5m thì tổng cộng chiều cao khoảng 2m, và phần chóp bị khuyết một phần có lẽ là đỉnh tháp có trang trí chi tiết. Thoạt nhìn ta có cảm giác là hình trụ tròn, nhưng đúng ra là một trụ vuông với phù điêu thể hiện giống nhau ở cả bốn mặt, hình tượng nổi bật là một trụ biểu tròn kiểu hình tháp cao với nhiều tuyến ngang chồng lên, đường nét chạm khắc khá chính xác và tinh xảo, trên có một số hoạ tiết nhưng đã hơi bị mờ vì xói mòn (rất tiếc không có hình chụp cận hoạ tiết). Hiện vật này cho tới nay chưa thấy nhà nghiên cứu văn hoá Champa nào chú ý hoặc đề cập tới. Dưới đây thử đưa ra vài nhận xét được quan sát qua hình chụp (tìm thấy trên mạng) về “cột đá thiêng” này, đồng thời sẽ được dẫn chứng bằng một số hình ảnh.
Thoạt đầu hơi khó nhận dạng vì nó giống trụ biểu hoặc cột đền, nhưng nếu xem xét kĩ hình tượng phù điêu trên cột đá này và so sánh với một biểu tượng quan trọng bậc nhất trong kiến trúc Phật giáo là stupa hay bảo tháp thì ta sẽ nhận ra mọi điểm tương đồng chung về cấu trúc, hình dạng và các thành phần mang ý nghĩa biểu tượng đều nằm trên cột đá này (cụ thể so với phong cách của các bảo tháp cổ và ngày nay ở khu vực Đông Nam Á, như Miến, Thái, Campuchia hoặc ngay cả Tây Tạng). Như vậy, “cột đá thiêng A Lưới” được xác định là một loại bảo tháp của Champa có kích thước nhỏ như tháp thờ cúng (votive stupa), niên đại nằm trong khoảng thế kỉ 9-10, thời điểm Phật giáo Kim Cương Thừa hưng thịnh ở miền trung, đặc biệt tại hai khu vực Đồng Dương (Indrapura) ở Quảng Nam và Đại Hữu ở Quảng Bình. Ngoài những pho tượng, đài thờ, và phù điêu đã tìm thấy ở miền trung vào thời kì này, thì có lẽ đây là hiện vật duy nhất và khiêm tốn còn sót lại về bảo tháp của Phật giáo Champa, và tiếc thay cho phế tích kiến trúc những stupa/bảo tháp của Phật viện Đồng Dương mà Parmentier khai quật vào năm 1902 giờ đây không còn lại gì.
Hình ảnh dẫn chứng ở trên gồm 5 stupa/bảo tháp, trong đó đặt cột đá A Lưới cạnh những mô hình stupa cổ từ thế kỉ 2-10. Đặc biệt cột đá thứ ba là một stupa nhỏ bằng đá tìm thấy ở Brunei (khoảng thế kỉ 9) đặc điểm cũng có bốn mặt rất giống với stupa A Lưới; và hình cuối là stupa của Phật viện Đồng Dương (trong bản vẽ tái cấu trúc của Parmentier khi khai quật vào năm 1902), so với bảo tháp A Lưới cũng có một số tương đồng, chẳng hạn phần thứ ba có hình tháp nhọn gồm rất nhiều vòng tròn bhumi chồng lên nhau (tượng trưng cho các giai đoạn phát triển tâm linh) đếm được cả hai đều có 18 vòng, điều này khiến cho kiểu stupa Champa có một đặc điểm và chiều cao đặc biệt.
Một số bảo tháp lớn và nhỏ trong cụm tháp thờ phía Tây của Phật viện Đồng Dương (ảnh chụp của Charles Carpeaux, 1902)
Hai bản vẽ hiện trạng khảo cổ và bản vẽ tái cấu trúc Phật viện Đồng Dương (mặt trước của cụm tháp phía tây) của Parmentier. Ta thấy có hai stupa lớn ở hai bên tháp thờ trung tâm của Phật viện và những stupa nhỏ xung quanh.
Đáng chú ý, trong bản vẽ phục dựng đài thờ Vihara Đồng Dương, Parmentier hình dung cho ta thấy trên bệ thứ hai, chính giữa có đặt một bảo tháp nhỏ cũng là đối tượng thờ trung tâm, có thể xem là vị trí tương ứng với bảo tháp A Lưới (bốn mặt) nếu được đặt hay cắm lên đó (tương tự như một trụ linga cắm vào bệ yoni), như ta thấy nó có phần chân móng cao ít nhất 0.5m.
Bản vẽ mặt bằng đền thờ chính của vihara Đồng Dương thể hiện đồ hình mạn-đà-la (bản vẽ của Henri Parmentier)
Đền Sewu ở Java xây vào tk. 8 và đền Bayon ở Cambodia xây vào cuối tk. 12, là một trong những ví dụ về mô hình kiến trúc bảo tháp và mạn-đà-la đặc trưng cho Phật giáo Kim Cương Thừa ở Đông Nam Á.
Nhân tiện, tạm giải thích cho lí do “cột đá thiêng A Lưới” nằm ở địa điểm A Lưới cả ngàn năm và đã được ngư dân vớt dưới sông lên. Có thể thấy đây là vùng từ xưa là giao điểm hay vùng tam giác trao đổi giữa Gia Lai – Huế - Quảng Nam bằng đường sông lẫn đường bộ qua lại dễ dàng. Như ta biết, các loại đá sa thạch hay cát kết có nguồn gốc ở vùng núi Duy xuyên (Quảng Nam) vì vậy cột đá stupa này thiết kế để đặt vào một bệ thờ, khả năng được chế tác ở Indrapura hay Đồng Dương, sau đó được chuyên chở chủ yếu bằng đường sông từ Thu Bồn để từ đó mang tới một Phật viện có thể ở Quảng Bình (hoặc Quảng Trị), không may ở những ngã tư sông nơi thuyền bè dễ gây tai nạn, đã khiến cột đá bị rơi xuống sông tại địa điểm này.
Phần phụ lục dưới đây là những khái quát về kiến trúc stupa. Stupa tượng trưng cho Pháp Thân của Phật hay Tam Thân (là ba cấp của kinh nghiệm giác ngộ). Sau khi Đức Phật nhập diệt, tro cốt hay xá lợi ngài được cất trong những mộ hình gò (gò hay ụ, nghĩa gốc của chữ stupa trong tiếng Phạn; về từ nguyên của tháp trong âm Hán là tā hay âm Việt là tháp đều gốc từ thupa trong tiếng Pali).
Phong cách stupa đầu tiên, có thể tính từ đại bảo tháp Sanchi (có cấu trúc hình vòm) do vua Ashoka triều Maurya xây vào thế kỉ 3 TCN để cất giữ xá lợi Phật. Trong lịch sử tiến hoá về phong cách của stupa ở Ấn Độ đã trải qua các thời kì từ Maurya, Bharut, Bodh Gaya, Mathura, Amaravati... Ở Gandhara vào triều đại Kushan cũng là thời kì nghệ thuật Phật giáo ảnh hưởng Hi Lạp, có tháp Loriyan Tangai vào thế kỉ 2 CN có thể xem là đã định hình cho các phong cách stupa về sau. Với cấu trúc mang những yếu tố tượng trưng này từ đó du nhập khắp thế giới Phật Giáo: sang Trung Á, Tây Tạng, Trung Quốc và các nước Đông Á khác, và theo đường biển tới các nước Đông Nam Á, và tuỳ mỗi vùng theo điều kiện văn hoá hay mỗi thời đại đã phát triển phong cách riêng, nhưng căn bản không ra ngoài các nguyên tắc tượng trưng của một stupa. Tuy nhiên mô hình phong cách stupa có thể phân biệt theo hai hướng Bắc truyền và Nam truyền. Nam truyền trực tiếp từ Ấn Độ theo đường biển tới Đông Nam Á, còn bảo lưu nhiều yếu tố của phong cách stupa cổ của Ấn Độ, còn Bắc truyền theo đường Tơ Lụa sang tới Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Việt Nam thì dần tiến hoá thành kiến trúc tháp chùa (pagoda) nhiều tầng. Vào cuối thế kỉ thứ 8, vương triều Sailendra đã bắt đầu xây ở trung tâm Java một đại bảo tháp Borobudur có kiến trúc quy mô của một hệ thống thể hiện vũ trụ của Pháp giới, trở thành kì quan bảo tháp vĩ đại nhất trong thế giới Phật giáo. Phật viện Đồng Dương của vương triều Indrapura xây sau đó một thế kỉ, cũng trong thời mà Phật giáo Kim Cương Thừa (Vajrayana) hưng thịnh ở Đông Nam Á gồm cả Champa, hoặc ngay cả Việt Nam vào thời nhà Đinh được chứng minh bằng nhiều cột kinh Dharani của Đinh Liễn. Như vậy, kiến trúc stupa là một biểu tượng quan trọng không thể thiếu của Phật giáo Kim Cương Thừa còn bảo lưu năm yếu tố biểu tượng ban đầu của Ấn Độ và được đưa vào kiến trúc bảo tháp trong thời kì Kim Cang Thừa phát triển vào những thế kỉ 6 - 9 ở Đông Nam Á mà tới nay còn giữ nguyên hình dạng cho dù từ thế kỉ 14 thì Phật giáo Theravada đã chiếm ưu thế ở khu vực này.
Mô hình một stupa, biểu trưng cho thể tướng Tam Thân Phật: Pháp Thân, Báo Thân và Hoá Thân. Năm thành phần tương ứng với năm nguyên tố hoặc đủ năm phần của Pháp Thân: Giới, Định Huệ, Giải thoát, Giải thoát tri kiến:
1. Cấu trúc bệ hình vuông (Đất); gồm ba bậc: Tam bảo; và bốn bậc: Tứ vô lượng tâm.
2. Cấu trúc tròn (Nước); 7 yếu tố giác ngộ.
3. Cấu trúc hình tam giác hay hình nón (Lửa); (gồm những vòng tròn chồng lên nhau thể hiện các giai đoạn phát triển tâm linh của một Bồ Tát.
4) Mặt trăng (Không khí) biểu tượng Từ bi.
5) Mặt trời và Viên Ngọc (Không gian) biểu tượng Trí tuệ và Giác ngộ.
Tham khảo:
Delobel, S. et al. (2005). Missions archéologiques françaises au Vietnam: Les monuments du Champa: Photographies et itinéraires 1902-1904. Paris: Les Indes savantes.
Parmentier, H. (1909). Inventaire Descriptif des Monuments Cams de L’Annam: Tome II: Planches, EFEO. Paris: Leroux.
Parmentier, H. (1918). Inventaire Descriptif des Monuments Cams de L’Annam: Tome III: Étude de L’Art Cam, EFEO. Paris: Leroux.
Phục dựng cổng phật viện Đồng Dương
QUẢNG NAMChuyên gia Ấn Độ sẽ phục dựng ba cổng, tường thành khu di tích phật viện Đồng Dương, được xây dựng từ năm 875.
Ông Phan Văn Cẩm, Giám đốc Ban quản lý di tích và danh thắng Quảng Nam, cho biết cuối tháng 6, năm chuyên gia Viện Khảo cổ học Ấn Độ (ASI) sẽ đến phật viện Đồng Dương, xã Bình Định Bắc, huyện Thăng Bình, một tháng để đo vẽ nền móng, lập hồ sơ thiết kế, phục dựng di tích. Dự kiến dự án bảo tồn, phục dựng phật viện Đồng Dương được triển khai trong năm 2024. ASI sẽ đồng thời khai quật khảo cổ và phục dựng kết cấu kiến trúc cổng chính và hai cổng phụ.
Trước đó cuối tháng 4, đoàn chuyên gia ASI đến khảo sát và đánh giá ban đầu về thực trạng, định hướng công tác bảo tồn, phục dựng phật viện Đồng Dương. Các chuyên gia thống nhất tu bổ và phục dựng một cổng chính, hai cổng phụ và tường thành hai bên. Việc này góp phần phục hồi diện mạo, quy mô di tích, không ảnh hưởng đến việc khai quật khảo cổ học và tu bổ tháp Sáng ở phía trong.
Theo thiết kế ban đầu, cổng chính nằm ngay lối vào phật viện với khối lượng xây lắp, tu bổ lớn bằng bốn tháp Chămpa thông thường. Đây sẽ là điểm nhấn của toàn bộ phật viện, là biểu tượng tiêu biểu của giao lưu văn hóa Việt Nam - Ấn Độ, dấu ấn của phật giáo Chămpa và khu vực Đông Nam Á thời trung đại.
Hai cổng phụ quy mô nhỏ hơn, kiến trúc tương đồng nằm phía trong của phật viện, nơi phân chia ba khu gồm: Tăng xá (nơi ở của tân sinh); giảng đường và chánh điện (nơi có đền thờ chính).
Theo nội dung tấm bia tìm thấy tại làng Đồng Dương, phật viện được vua Indravarman II xây dựng vào năm 875 để thờ vị Bồ tát bảo hộ cho vương triều là Laksmindra - Lokesvara.
Vào những năm đầu của thế kỷ 20, các nhà khoa học Pháp đã khai quật được hàng trăm tác phẩm điêu khắc, phần lớn đang được trưng bày ở Bảo tàng Chăm Đà Nẵng. Nổi bật nhất là tượng Phật bằng đồng cao hơn một mét, được xem là kiệt tác nghệ thuật trong điêu khắc Chămpa khu vực Đông Nam Á.
Năm 1902, nhà nghiên cứu H.Parmentier đã khai quật phật viện Đồng Dương. Theo khảo tả của H.Pramentier, toàn bộ khu đền thờ chính và các tháp nằm lân cận phân bố trên một trục từ tây sang đông, dài khoảng 1.300 m. Khu đền thờ chính nằm trong khu vực hình chữ nhật dài 326 m, rộng 155 m, xung quanh có tường gạch bao bọc. Từ khu đền chính có một con đường dài khoảng 760 m chạy về phía đông đến một thung lũng hình chữ nhật.
Các nhà khảo cổ đã phát hiện dấu vết chánh điện, nền gạch của khu tăng xá, giảng đường nối nhau trên một chu vi rộng lớn. Những viên ngói dùng lợp cho các khu xây dựng cũng được phát hiện rải rác, chứng minh đây là mô hình phật viện khép kín rất lý tưởng cho việc đào tạo tăng tài.
Trong chiến tranh, phật viện đã bị tàn phá, hiện chỉ còn mảng tường tháp Sáng cùng với nền móng công trình kiến trúc và một số vật trang trí bị vùi lấp. Nhiều hiện vật tìm thấy ở phật viện Đồng Dương đã được công nhận là bảo vật quốc gia, hiện trưng bày tại Bảo tàng Điêu khắc Chămpa Đà Nẵng.
Đầu tháng 12/2019, phật viện Đồng Dương được công nhận di tích quốc gia đặc biệt. Cuối năm 2022, Quảng Nam phê duyệt dự án bảo tồn và phát huy giá trị khu di tích với vốn đầu tư hơn 5 tỷ đồng.