Thứ Bảy, 21 tháng 3, 2015

Trương Vĩnh Ký : Chiếc cầu nối Đông-Tây


Trương Vĩnh Ký : Chiếc cầu nối Đông-Tây
 
Pétrus Ký DR

    « Nhà văn Việt Nam. Sáng lập ra ngành báo chí tại Việt Nam, ông cũng là tác giả của nhiều tác phẩm lịch sử, giảng dạy, ngôn ngữ và dịch thuật các tác phẩm Tầu » . Đây là lời giới thiệu về Jean-Baptiste Pétrus Trương Vĩnh Ký (06/12/1837-01/09/1898) của từ điển các danh nhân của Larousse. Ông cũng được giới học thuật châu Âu thế kỷ XIX liệt vào một trong « Thế giới Thập bát văn hào » , đồng thời đứng trong hàng những người biết nhiều ngoại ngữ bậc nhất trên thế giới nhờ thông thạo 10 ngoại ngữ và nắm sơ một số khác.

    Cuộc đời và sự nghiệp của ông nhận nhiều ý kiến trái chiều. Một số người nhìn nhận ông như tay sai của thực dân Pháp. Một số khác thì ghi nhận ông như người đặt nền móng cho nhiều lĩnh vực chưa từng được biết đến tại Việt Nam trong giai đoạn đó, như dịch thuật, báo chí và viết văn.
    Sinh tại ấp Cái Mơn, huyện Vĩnh Thành, tỉnh Vĩnh Long (nay thuộc huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre), Trương Vĩnh Ký, còn được biết tới dưới các bút hiệu « Sĩ Tải » hay « Nam Trung ân sĩ », nổi tiếng với học thức uyên bác, am tường nhiều lĩnh vực và khả năng ngoại ngữ siêu phàm. Ngay từ nhỏ, nhờ trí thông minh, nhanh nhẹn, ông được linh mục Long đưa vào trường dòng học chữ la tinh ở Cái Nhum (thuộc tỉnh Vĩnh Long ngày nay). Từ đó, ông được bôn ba du học tại nhiều nước trong khu vực, từ Cam-bốt tới Cao Miên hay Pinang (Malaysia). Tại mỗi nơi, được gặp gỡ bạn đồng môn quốc tế, ông vận dụng khiếu ngoại ngữ để học tiếng nói của họ. Tới năm 1858, khi quay về quê chịu tang mẹ, ông đã thành thạo khoảng chục ngoại ngữ và am tường văn chương, khoa học, triết học. Năm đó, ông mới 21 tuổi.
    Năm 1860, dưới sự chỉ huy của Đô đốc Bonard, người theo chủ trương tôn trọng ngôn ngữ và phong tục bản địa, quân đội Pháp chuẩn bị tấn công Sài Gòn và cần một thông dịch để tránh mắc sai lầm về chính trị. Linh mục Lefèbvre trông coi địa phận Nam Kỳ đã giới thiệu Trương Vĩnh Ký. Bắt đầu từ công việc thông dịch, dần dần ông tham gia nhiều lĩnh vực khác, đặc biệt phải kể đến báo chí và xuất bản, trước khi tham gia chính trị để rồi cuối đời gần như về ở ẩn và viết sách do bị cả chính phủ thuộc địa Pháp và triều đình nhà Nguyễn nghi kị.
    Cầu nối Đông-Tây ?
    Vai trò cầu nối Đông-Tây của Trương Vĩnh Ký có thể được thể hiện trên nhiều lĩnh vực, trong đó phải kể tới dạy học, dịch thuật và làm báo.
    Theo nhận xét của Nguyễn Cao Kim trong bài « Thân thế và sự nghiệp của Trương Vĩnh Ký » , « ông giữ thái độ đặc biệt không đi quá trớn. Sau khi được đô đốc Bonard mời ra giúp việc, ông đã chấp thuận với ý định tạo nên bầu không khí giao hảo giữa Pháp và Việt Nam. Cũng vì nghĩ như vậy nên lúc làm thông ngôn (20-12-1860), hay lúc làm Đốc học trường thông ngôn Sài Gòn, ông vẫn chủ trương giúp cả hai nước mà chẳng nhị tâm ».
    Phải chăng, Trương Vĩnh Ký chỉ muốn tận dụng cơ hội và vị trí của mình để xoa dịu những mất mát của người dân do chiến tranh gây ra và sau đó là cổ xúy cho tân trào ?
    Năm 1861, đô đốc Charner, người kế nhiệm và đi ngược với chính sách bị coi là « mị dân »của đô đốc Bonard, cho phá đồn Chí Hòa (Kỳ Hòa). Hiểu rõ nỗi thống khổ của người dân, Pétrus Ký muốn làm dịu vết thương chiến tranh bằng cách đứng ra làm gạch nối cho sự giao hảo Pháp-Việt. Có lẽ vừa do phẩm chất, vừa do trình độ, nên nhiều lần, ông được cử làm thông ngôn cho sứ bộ hai bên, trong đó phải kể tới chuyến sang châu Âu của phái đoàn Phan Thanh Giản (06/1863-03/1864) đàm phán với triều đình Pháp và Tây Ban Nha việc chuộc lại ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ (Biên Hòa, Gia Định, Định Tường).
    Trong thời gian lưu lại châu Âu, Trương Vĩnh Ký đã khám phá tinh hoa của nước Pháp và tìm hiểu tại sao người Pháp có thể tới đánh chiếm một nước xa xôi như Việt Nam. Ngược lại, ông cũng đã khiến triều đình Pháp thán phục trước sự thông tường chữ la tinh. Để thử tài của ông, một Bộ trưởng Pháp, trong lúc đón phái đoàn, đã để ông nói chuyện với một chuyên gia chữ la tinh hàng đầu của chính phủ.
    Trong cuốn Impressions d’un Japonais en France, suivies des impressions des Annamites en Europe (Ấn tượng của một người Nhật tại Pháp, tiếp theo là ấn tượng của người An Nam tại châu Âu, 1864), Richard Cortembert miêu tả cuộc đối thoại giữa Pétrus Ký và nhà la tinh học lỗi lạc của Pháp thời bấy giờ như sau :
    « … Đôi khi, nhà bác học Pháp phải chờ đợi vài giây trước khi kết thúc đoạn hội thoại của mình và dường như phải quanh co để không bị đuối. Trái lại, chàng phiên dịch An Nam lại cứ thoải mái nói hơn bao giờ hết ; cứ như từng giây một, cậu ta lại có thêm sinh lực mới… Những lời giải thích của cậu trở nên chính xác, rõ ràng hơn, trong khi đó, đối thủ của cậu luẩn quẩn trong cách nói dài dòng và không chính xác. Có lúc, như đuối sức, nhà ngôn ngữ học nổi tiếng phương Tây trả lời luôn bằng tiếng Pháp trước câu hỏi bằng tiếng la tinh của Pétrus ; chàng thanh niên An Nam phản lại bằng tiếng la tinh, và người ta lại trả lời bằng tiếng Pháp… »
    Từ năm 1866 tới 1879, ông lần lượt được đề cử làm Giám đốc dạy tiếng Đông phương ở trường Thông ngôn (Collège des Interprètes (1866-1868)), rồi Giám đốc Trường sư phạm (Ecole normale, 01/01/1872-31/12/1873) và cuối cùng là Giáo sư sinh ngữ (tiếng Việt và Hán tự) tại trường Tham biện Hậu bổ (Ecole des Administrateurs stagiaires, 01/01/1874-1879).
    Đây là khoảng thời gian mà ông soạn nhiều sách và giáo trình để phục vụ cho công việc giảng dạy. Đối với người Pháp là giáo trình dạy chữ Hán và quốc ngữ, địa lý và lịch sử Việt Nam. Đối với người Việt, phần lớn cũng là sách dạy chữ quốc ngữ và tiếng Pháp. Ngoài ra, nhận thấy người Pháp mở trường tiểu học nhưng « quên » soạn và in sách, ông đã biên soạn nhiều sách giáo khoa, đồng thời luôn có những lời khuyên răn đạo đức cho trò nhỏ mà có thể thấy trong cuốn Sơ học vấn tân quốc ngữ diễn ca (1877) :
    « Sách Sơ học vấn tân nghĩa là kẻ mới học hỏi bền là sách Annam làm cho con-nít học cũng như bên Tàu Tam-tự-kinh vậy. Sách nầy tóm cả truyện bên Trung-quốc cả truyện bên nước Nam ta nữa ; lại có kể ra phép học, bài thi, khuyên gắng công học cho chuyên.
    Vậy nay âm ra ba thứ tiếng để cho con-trẻ học mà phá ngu, cùng tập lần cho biết cho dễ học sách cao đến sau ; đã có chữ có nghĩa lại có tiếng phangsa một bên, học một mà biết ba thì cũng tiện lắm.
    Học thì chẳng phải là học cho biết viết chữ, cho thuộc tiếng nói mà-thôi, mà lại phải học nghĩa-lý phép-tắc, lễ-nghi, cang-thường luân-lý, là giềng-mối mà xử-trí trong việc ăn-ở trong đời với thiên-hạ. Ấy là lịch ấy là thanh. Nên phải do cựu tùng tân mới là phải, chẳng nên mới chuộng cũ vong mà mang lấy tiếng « yểm cựu nghinh tân ». Vì « vật hữu bổn mạt, sự hữu thỉ chung ; tri sở tiên hậu tắc cận đạo hỉ ». »
    Tại thời điểm đó, tác giả không phải bận tậm việc phân phối sách nhờ trợ cấp của chính phủ và thường viết theo « đặt hàng ». Vì không phải lo lắng tới việc phân phối và nhuận bút, nên tác giả hoàn toàn có thể chuyên tâm vào việc nghiên cứu để tác phẩm có chất lượng tốt. Hoặc nếu nhận thấy một tác phẩm có ích, nhà nước sẽ xét duyệt ngân sách để mua và phân phối tới các trường học, thư viện hay các phòng ban hành chính.
    Cũng trong giai đoạn này, ngoài sách dạy học, ông cũng chuyên tâm dịch các bộ sách cổ của Tầu, như Tứ Thư (1876) (Đại học, Trung dung, Luận ngữ và Mạnh Tử). Một số ý kiến cho rằng, dù theo Công giáo, nhưng ông vẫn giữ truyền thống nho giáo phương Đông và muốn duy trì những tư tưởng này cho thế hệ sau.
    Tư tưởng này cũng nổi bật rõ nét trong những câu chuyện mà ông biên soạn sau khi từ giã quan trường lui về ở ẩn. ông chuyển thể sang chữ Quốc ngữ những chuyện thơ dân gian, hay viết những câu chuyện đơn giản, dễ hiểu đầy ngôn từ địa phương. Ví dụ có thể kể đến các cuốn : Bất cượng chớ cượng làm chi (1882), Nữ tắc (1882), Thơ mẹ dạy con (1882), Thơ dạy làm dâu (1882), Thạch suy bỉ thới phú (1883), Học trò khó phú (1883), Phú bần truyện diễn ca, Cờ bạc nha phiến (1884)… Trong lời tựa của mỗi cuốn sách, ông đều tìm cách giải thích cho người đọc ý nghĩa câu chuyện, bài học đạo đức và giải thích phong tục tập quán. Như trong cuốn Thạnh, suy, bỉ, thới có những dòng tâm sự sau :
    « Phú nầy nói về làm con người ở đời thì có sự thạnh, sự suy, sự bỉ, sự thới. Lúc thạnh thì khiến cho được giàu-có sang-trọng. Của-cải bạc-tiền, ngọc ngà châu báu chẳng thiếu vật chi. Đã giàu mà lại thêm sang, tôi-mọi hầu-hạ trong ngoài, khách kẻ tới người lui chật nhà chật cửa. Đến lúc suy cũng như hùm mạnh sa cơ, nhà-cửa xích-xác, trống trước trống sau, cũng như Vương-khải với Thạch-sùng khi nghiên-nghèo sánh lại với buổi giàu-sang, xa cách nhau biết là bao nhiêu ? Khi bỉ thì khốn-khó lút đầu lút óc, trí phải khó-nhọc buồn-rầu, xác phải nhọc-nhằn công lên việc xuống ; ăn bữa no bữa đói, đi thất-thơ thất-lạc. Đến khi gặp hồi thới lai, thì lại ra tử-tế, nên giàu nên sang, quan yên dân chuộng kẻ đưa người rước ; việc gì việc nấy đều may-mắn cả, phỉ-chí toại lòng.
    Vậy mới biết việc đời xây-vần dời-đổi. Nên dầu nghèo dầu giàu cũng chẳng nên lo ; hễ hết thạnh thì tới suy, suy rồi lại thạnh ; hễ có qua cực rối lại sướng, sướng rồi lại tới cực đắp-đổi nhau. Có vậy mới từng mùi đời, mới biết thạnh suy bỉ thới ».
    Nhìn vào danh sách tác phẩm của Trương Vĩnh Ký, có thể nhận thấy rằng ngoài kiến thức siêu phàm, phải có tâm huyết cao, ông mới có thể soạn ra các tác phẩm với những chủ đề đa dạng như vậy.
    Nhà trí thức vì tân trào
    Mong muốn duy tân đất nước của ông được thể hiện rõ ràng ngay trong chuyến công du lần đầu tới nước Pháp. Cũng như nhiều quan lại trong phái bộ, ông ý thức rằng văn minh, nông nghiệp và công nghệ châu Âu đã tiến xa rất nhiều so với phương Đông. ông nuối tiếc nêu những điểm yếu của Việt Nam trong bức thư gửi Richard Cortembert :
    « Ở An Nam, đất đai rất mầu mỡ ; nhưng không được tiếp xúc với nhu cầu lao động nên tâm trí luôn trong trạng thái « ăn không ngồi rồi »… Đối với những người đứng đầu nhà nước, vấn đề không phải là phải thay đổi An Nam, mà là phải đấu tranh chống sự trây ì… Và có bao nhiêu điều mê tín phải loại bỏ, bao nhiều phong tục phải cải tổ lại, bao nhiêu định kiến phải tiêu diệt, bao nhiêu tính kiêu căng sẽ bị động chạm tới trong chiến dịch tổng cải tổ này ! »
    ông chỉ trích quan lại Việt Nam quá cố hữu trong những chuẩn tắc của chính mình. Dù có trình lên những gì « mắt thấy tai nghe » tại châu Âu, hay có đưa ra những đề xuất gì, chưa chắc phái bộ Phan Thanh Giản đã thuyết phục được triều đình thay đổi ý kiến. ông cũng lo lắng vì quan lại không nghĩ tới dân, mà chỉ muốn làm vui lòng vua nhà Nguyễn với những tin tức hay sự kiện vui vẻ. Trong khi đó, họ giấu nhẹm những tai ương, đói khổ mà người dân cam chịu.
    Ngoài ra, hơn ai hết, ông cũng hiểu được những khó khăn trong việc phổ biến học thuật mới bằng chữ Tầu. ông băn khoăn tự hỏi : « Làm thế nào để có thể truyền bá kiến thức với loại chữ tượng hình với hàng loạt kí tự khó này ? Tôi không phủ nhận rằng người ta có thể tiếp nhận khoa học với loại chữ này. Nhưng chỉ toàn bất tiện và khó khăn mà thôi. Để có thể đọc và hiểu được tốt những gì loại chữ này thể hiện, một người phải mất ít nhất cả tuổi thanh xuân của mình ; anh ta chẳng bao giờ có đủ thời gian để bắt tay nghiên cứu những công trình khoa học.
    Đồng hương của tôi tạo thành một dân tộc dễ sai khiến, hay bắt chước, nhưng lại hoàn toàn trây ì ; tôi thấy rằng, ở đây, lỗi chủ yếu là do nhà nước. Họ không chú tâm vào khích lệ hay thức tỉnh dân tộc » .
    Chính vì thế, ngoài viết sách, báo chí cũng là công cụ hữu hiệu để ông thử nghiệm việc truyền bá học thuật bằng chữ quốc ngữ. Trước khi ông được bổ nhiệm làm « chánh tổng tài »(rédacteur en chef), Gia-định báo chỉ đơn thuần là một tờ công báo của chính phủ Pháp tại Nam Kỳ. Tờ báo dịch đăng những thông tin bằng tiếng Pháp của tờ Le Courrier de Saigon. Tờ công báo này có nội dung nghèo nàn và ngôn từ khô khan với hai phần : « Phần Công vụ » với những thông tư, văn bản mới được công bố và « Phần Tạp vở » với những thông tin thuyên chuyển, bổ nhiệm hay giá cả một số mặt hàng.
    Làm chánh tổng tài từ số 20 (24/09/1869), ông đã biến tờ báo thành một cơ quan phong phú, đa dạng hơn. ông khuyến khích viên chức nhà nước, giáo viên tham gia viết bài về bất kì chủ đề gì, từ cuộc sống đời thường tới những bài học khuyên răn đạo đức, từ dịch chuyện hay viết văn bằng chữ quốc ngữ... Ngoài các cơ quan nhà nước và địa phương, tờ báo cũng được « phát không tới các trường học để học sinh khá trong các làng mạc có thể đọc được » (Le Courrier de Saigon, số 7, 05/04/1865).
    Chính vì thế, Gia-định báo giữ hai chức năng chủ đạo. Thứ nhất, là chiếc cầu nối nhằm tránh những hiểu lầm giữa chính phủ và người dân. Mục đích này được ông viết trong lời tựa số 20 :
    « Những thầy trường quốc ngữ thì trễ nải, hoặc chẳng đọc nhựt trình cho học trò hay là người làng nghe, hoặc có khi chẳng hiểu cho rõ, kẻ hay chữ thì chẳng hay cắt nghĩa cho người ta biết với. Quan Nguyên-Soái người muốn cho người ta đừng có làm như vậy nữa, thì người phú cho ta việc đặt nhựt trình nầy kẻo người ta nói đặng rằng không hiểu, cũng là cho người ta biết những điều viết trong nhựt trình là đều thật và có ích.
    Nhựt trình nầy có ích cho mọi người vì trong ấy có đủ mọi đều về dân sự, lịnh quan Nguyên Soái dạy, ý người về sau làm sao cùng là cách thế người làm. Trong ấy người ta biết được các tin tức buôn bán. Ở trên Châu-Đốc Hà-Tiên đều biết được giá hàng tại Saigon Chợ-Lớn. Mà ngồi một chỗ khỏi đi đâu, nên muốn mua muốn bán cũng gặp chầu, lại biết cho đến giá riêng đồ các chợ lớn ở các nơi. » (Gia-định báo, số 20, 24/09/1869).
    Mặt khác, trong một thời gian dài, Gia-định báo được dùng làm sách dạy đọc chữ quốc ngữ tại các trường học ở nông thôn. Trên thực tế, chính phủ Pháp lập trường nhưng lại không tập trung soạn sách giáo khoa. ông hiểu rằng nhắm tới học sinh nhỏ, sẽ tác động được tới cha mẹ của các em. Vì các em thường kể những gì mình học được và nghe được cho gia đình.
    Từ một tờ công báo đơn thuần, ông đã biến Gia-định báo thành một cơ quan truyền bá với ba mục đích chính : truyền bá chữ quốc ngữ, cổ động tân học và khuyến học trong dân. Các mục mới như khảo cứu, nghị luận, gồm các bài dịch thuật, sưu tầm, khảo cứu, sáng tác thơ, văn, lịch sử, truyện cổ tích lần lượt được mở với sự tham gia của các cộng tác viên là trí thức, giáo viên hay công chức… Gia-định báo đã mở đường cho các thể loại văn xuôi Việt Nam in bằng chữ Quốc ngữ, đặt nền móng cho sự hình thành báo chí Việt Nam.
    Dù cổ vũ tân trào, Trương Vĩnh Ký luôn giữ những giá trị truyền thống phương Đông, đặc biệt là trang phục áo dài, khăn xếp. Chính cách ăn mặc giản dị, cũng như thần thái khoan dung của một nhà nho học, lúc đó mới có 25 tuổi, đã khiến Richard Cortembert ngỡ ngàng khi tiếp xúc tại Paris. ông viết : « Diện mạo của cậu ta (Trương Vĩnh Ký) khác hoàn toàn với những người khác cùng đoàn ; - tuy sắc mặt có vẻ xanh xao hơn, mũi tẹt hơn ; đôi môi thì dầy, còn gò má thì cao, nhưng vầng trán thì rất rộng làm nổi rõ tính cách quân tử. Trang phục của cậu ta, vô cùng giản dị, gồm một kiểu như váy đen khiến liên tưởng tới váy trùm của thầy tu. Một dải băng dài màu xám cuốn xung quanh đầu và để hé vài sợi tóc đen phía sau…
    Tôi nhanh chóng nhận thấy sự thông minh nổi trội và những phẩm chất thanh cao của chàng phiên dịch trẻ, mà giọng nói nhẹ nhàng đầy thiện cảm đã cuốn hút tôi ngay lập tức… Rất dễ để nhận thấy rằng chuyên môn ưa thích của cậu ta là thần học. Cậu ta nói chuyện về chủ đề này, không hề tự phụ, với một cách dẫn giải khó lòng cưỡng lại được. Cậu ta ở đúng bộ môn mình ưa thích, lĩnh vực mà cậu đã trau dồi từ lâu và thấu hiểu tường tận : cậu ta mới chỉ có 25 tuổi ! »
    Chênh vênh ở thế giữa, ông chọn làm cầu nối trung gian giữa hai nền văn minh Đông và Tây : hai thái cực mà một bên ông ngưỡng mộ, còn bên kia, ông thương yêu gắn bó. ông tìm cách phổ biến những gì tiên tiến tốt đẹp của phương Tây mà Việt Nam chưa có. Đồng thời, ông vẫn bảo tồn và quảng bá những truyền thống của người Á đông. Gần 200 tác phẩm ông để lại, gồm đủ các loại tiếng, giúp chúng ta phần nào đánh giá được sự nghiệp và lương tâm nghề nghiệp của ông.
    Các lưu trữ
    1. 1
    2.  
    3. 2
    4.  
    5. 3
    6.  
    7. ...
    8.  
    9. trang sau >
    10.  
    11. trang cuối >