Thứ Sáu, 17 tháng 3, 2023

Luật sư Nguyễn Ngọc Bích - một người tài giỏi và khiêm nhường

 

(PLO)-  Với Luật sư Nguyễn Ngọc Bích, càng nhiều người cần đến pháp luật, hiểu biết pháp luật và có khả năng bảo vệ pháp luật thì xã hội sẽ ngày càng tốt hơn về mọi nhẽ.

Chiều 15-3-2023, sau một thời gian bệnh nặng, luật sư Nguyễn Ngọc Bích đã chia tay gia đình và những người yêu quý anh để đi về cõi khác.

Nhớ anh Nguyễn Ngọc Bích là nhớ một trong những người Việt Nam đầu tiên học luật ở ĐH Harvard. Nhớ anh là nhớ người mở văn phòng luật sư Việt Nam phục vụ đầu tư nước ngoài đầu tiên ở Việt Nam trước 1975. Nhớ anh là nhớ một trọng tài viên nổi tiếng của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam.

Luật sư Nguyễn Ngọc Bích - một người tài giỏi và khiêm nhường ảnh 1

Từ trái: vợ chồng ông Trương Tấn Sang, nhà văn Lê Thành Chơn, tác giả Nguyễn Thế Thanh và LS-ĐBQH Trương Trọng Nghĩa, vợ chồng luật sư Nguyễn Ngọc Bích và con gái Nguyễn Ngọc Phương Thảo. Ảnh chụp tháng 6-1994

Nhớ anh Bích là nhớ một người thầy rất đáng kính trọng về sự uyên thâm của kiến thức và sự hấp dẫn trong phong cách luật sư đối với các thế hệ luật sư ở phía Nam sau năm 1975. Nhớ anh là nhớ một cộng tác viên báo chí (Phụ Nữ, Thời báo Kinh tế Sài Gòn...) nhiệt huyết, am tường pháp luật, không tránh né những vấn đề gai góc với một thái độ chính trực và điềm tĩnh.

Nhớ anh là nhớ một trí thức tử tế, nhân hậu, luôn nói điều tốt cho người khác, tất nhiên là những điều tốt có thật; trong khi bản thân anh sau năm 1975 từng mang nặng nỗi buồn suốt thời gian dài mà sau đó anh không hé lời oán trách ai! Có người hỏi: "Sao phải im lặng?", anh chỉ hiền lành đáp: "Chẳng để làm gì. Mỗi người đều có lựa chọn riêng".

Lựa chọn của anh là tạo lập công ty luật để góp phần đáp ứng nhu cầu pháp lý ngày càng lớn của xã hội; là giảng dạy bằng nhiều hình thức để góp phần đào tạo ra các luật sư thực thụ; là tham gia các diễn đàn khi cần để góp phần làm sáng tỏ các góc khuất do sự hiểu biết pháp luật chưa chạm tới được.

Với anh Bích, càng nhiều người cần đến pháp luật, hiểu biết pháp luật và có khả năng bảo vệ pháp luật thì xã hội sẽ ngày càng tốt hơn về mọi nhẽ.

Luật sư Nguyễn Ngọc Bích: Lòng biết ơn, sự khiêm nhường và sự tử tế

Hay tin luật sư Nguyễn Ngọc Bích qua đời, tâm trạng tôi rất rối bời. Những người từng học, từng tiếp xúc với ông đều dễ cảm nhận sự khiêm cung, hiền hậu, thẳng thắn, sẵn sàng chia sẻ.

Tôi nhớ ông với cảm xúc của người từng là học trò, luật sư cộng sự với lòng tôn kính.

Luật sư Nguyễn Ngọc Bích - một người tài giỏi và khiêm nhường ảnh 2

Luật sư Nguyễn Ngọc Bích và vợ. ẢNH GIA ĐÌNH CUNG CẤP

Điều quý giá thầy Bích truyền lại cho thế hệ học trò khoá 1 của Học viện Tư pháp: Đó là năng lượng tích sự, sự sáng tạo, và cách nhìn, cách tiếp cận sự việc rất khoa học và hiện đại. Phát hiện bản chất là gì? Giải quyết vấn đề liên quan sự việc như thế nào? Câu hỏi chủ chốt ra sao?

Chính phương pháp dạy học khác biệt đã đào tạo ra nhiều thế hệ luật sư có tư duy đổi mới, sáng tạo, giải quyết vấn đề vượt qua tư duy trường lớp, sách vở. Chính tư duy mới này giúp cho việc trang bị kiến thức hành nghề, kỹ năng thực chiến của luật sư rất tốt.

Thầy Nguyễn Ngọc Bích đã có nhiều đóng góp trong lĩnh vực luật kinh tế, liên quan đến doanh nghiệp. Rất nhiều tổng công ty, doanh nghiệp tốt lên sau khi được luật sư Bích tư vấn, phân tích, tìm giải pháp áp dụng vào cho từng doanh nghiệp vượt qua nhưng tranh chấp trong kinh doanh.

Bởi với khối lượng kiến thức, kinh nghiệp rất uyên bác của mình, luật sư Bích còn tài tình vận dụng luật pháp quốc tế phù hợp trong bối cảnh cho các doanh nghiệp làm ăn, kinh doanh trong nước.

LS PHẠM NGỌC HƯNG,nguyên Phó Chủ tịch Hiệp hội doanh nghiệp TP.HCM

Với riêng vợ chồng chúng tôi (tác giả - Nguyễn Thế Thanh và chồng - LS-ĐBQH Trương Trọng Nghĩa), anh Bích là một người ân về tinh thần. Đầu những năm 90 của thế kỷ trước, anh luôn khuyên chồng tôi đừng bỏ phí những kiến thức luật đã thu lượm được ở bậc đại học tại Đức, nên tìm cách tiếp tục học thêm về luật để chuẩn bị cho thời kỳ hoạt động luật sư thật sự phát triển hơn ở Việt Nam sau Pháp lệnh Luật sư ban hành năm 1987. Chính anh và luật sư Triệu Quốc Mạnh đã giới thiệu để chồng tôi đi dự tuyển học bổng Fulbright.

Khi biết chồng tôi đã trúng tuyển và sẽ đi học thạc sĩ luật ở Mỹ, anh mừng lắm, mừng như thể chính anh trúng tuyển học bổng uy tín này lần thứ hai. Trước khi chồng tôi lên đường đi học, chúng tôi đã tổ chức một bữa cơm thân mật với một vài người bạn: vợ chồng anh Nguyễn Ngọc Bích và bé Phương Thảo, nhà văn Lê Thành Chơn (giám đốc Khách sạn Sài Gòn) và vợ chồng anh Trương Tấn Sang (lúc đó là chủ tịch UBND TP.HCM).

Sau này, khi chồng tôi làm công chức và cả khi đã xin nghỉ việc trước tuổi hưu 5 năm để chuyển hẳn sang làm nghề luật sư, anh Bích và chúng tôi thỉnh thoảng vẫn gặp nhau, vẫn có rất nhiều điều hợp ý để chia sẻ. Anh vẫn sôi nổi và hiền lành, chân thật, không thay đổi.

Trong lần gặp cách đây vài năm trước dịch COVID (một buổi tiếp tân do Lãnh sự quán Mỹ tổ chức), tôi có nói với anh rằng, tôi nghe những luật sư trẻ từng bảo "Ai chưa biết anh là thiệt thòi, ai đã biết anh là vinh dự", anh cười ồ và gạt đi: "Bà tin làm gì, họ cứ nói quá lên".

Anh Bích là như vậy, rất uyên bác (như các học trò của anh nói về thầy của mình) nhưng cũng rất khiêm nhường, thật sự khiêm nhường.

Tạm biệt anh, anh Bích nhé! Xin gửi theo anh một lần nữa lời cảm ơn tận đáy lòng của vợ chồng em. Xin chia buồn sâu sắc cùng chị và các cháu.

Luật sư Nguyễn Ngọc Bích: "Sự học không ngừng giúp tôi đóng góp cho xã hội một tấm lòng"

Tin tức về sự ra đi của Luật sư Nguyễn Ngọc Bích như một hồi chuông vang lớn, có lẽ không chỉ đối với tôi, mà còn đối với các thế hệ luật sư, các lứa sinh viên luật, và những người biết đến thầy, để lại trong chúng tôi cảm xúc đan xen, như ánh sáng chiếu rọi con đường chúng tôi đã đi và sẽ đi phía trước.

Luật sư Nguyễn Ngọc Bích - một người tài giỏi và khiêm nhường ảnh 3

Luật sư Nguyễn Ngọc Bích trong một chuyến dã ngoại cùng học trò. Ảnh gia đình cung cấp

Luật sư Nguyễn Ngọc Bích - một người tài giỏi và khiêm nhường ảnh 4
Nhiều người nhớ đến Luật sư Nguyễn Ngọc Bích với cảm xúc của người từng là học trò, luật sư cộng sự... với lòng tôn kính. Ảnh gia đình cung cấp

Ít ai biết thầy đã nếm trải đủ mùi cay đắng của cuộc đời cùng mặc cảm khuyết tật… trước khi trở thành điểm tựa tinh thần của bao người, hoặc cũng có thể thầy trở thành điểm tựa của các thế hệ chính vì những đắng cay đã nếm trải.

Bất kể hoàn cảnh đưa đẩy, thầy vẫn kiên định trong tâm, sáng trong trí để sự tìm tòi, khao khát về bản ngã, cuộc sống, con người xung quanh, về tôn giáo và nhân sinh quan, được kích thích trỗi dậy.

Thầy chia sẻ: “Tôi là người không ghen tỵ, nhờ thế nhìn người khác rõ hơn. Sống tốt cho người ta sự lạc quan. Khi tâm tĩnh thì trí sáng, khi trí sáng thì càng kích thích sự tìm tòi, khao khát”. Sau năm 1975, thầy tham gia nhóm nhân sĩ tư vấn cho Chính phủ và đồng hành cùng đất nước.

Và khi đất nước đổi mới, thì thầy đã có sẵn những cái “mới” đó bằng trí tuệ và kiến thức học được từ những ngày ở Harvard. Thầy góp phần giúp lãnh đạo Việt Nam đổi mới, giúp các thế hệ luật sư hiểu như thế nào là pháp quyền, như thế nào là kinh tế thị trường, bằng cách nào để quản trị một công ty đúng cách.

Luật sư Nguyễn Ngọc Bích - một người tài giỏi và khiêm nhường ảnh 5

Sách của luật sư Nguyễn Ngọc Bích là những tài liệu quý giá cho giới luật sư Việt Nam

Thầy là chuyên gia về luật doanh nghiệp, góp phần xây dựng Luật doanh nghiệp. Thầy đóng góp cho đời không chỉ bằng lời, bằng sách, mà còn đóng góp bằng tinh thần pháp luật.

Trên từng bước chân hành nghề, thầy dùng sự chính trực của cuộc đời của mình để dạy người khác, luôn dùng lập luận của người luật sư đê giải quyết vấn đề phức tạp một cách dễ hiểu.

Di sản của thầy là kiến thức cho các thế hệ, từ phong cách luật sư, đến tư tưởng, tư duy sống và làm việc, phương châm “luật là phải dễ hiểu cho tất cả mọi người”, đến những quyển sách và kiến thức uyên thâm.

Sách do thầy viết là những tài liệu quý giá cho Luật sư Việt Nam, được tái bản nhiều lần như: Suy nghĩ của Luật sư, Tài ba của Luật sư, Tư duy pháp lý của Luật sư, Công ty: vốn, quản lý và tranh chấp (đồng tác giả với Nguyễn Đình Cung), "Khơi dòng chảy cho đồng vốn"; "Buôn bán với Mỹ"... Cách chia sẻ của thầy trong sách thực tế, đơn giản, pha chút phóng khoáng, hóm hỉnh, như câu chuyện bên tách trà chiều, giản dị, chân thật, dễ thấu.

Thầy từng nói: “Sự công chính là mộc che đỡ, cộng với sự học không ngừng đã giúp tôi đóng góp cho xã hội một tấm lòng. Tôi biết tôi ở đâu, và phải làm gì để xứng đáng với nhân phẩm của mình”

Thầy đã ra đi trong sự tiếc thương và tri ân của nhiều người. Thế nhưng tiếc thương lại không phải là cách người công giáo như thầy mong đợi, mà phải làm sao cho di sản của thầy đồng hành cùng với các thế hệ luật sư tương lai, cùng đất nước.

Chúng tôi đang chuẩn bị cho việc lập quỹ từ thiện và giải thưởng Nguyễn Ngọc Bích, với mục đích vinh danh đạo đức, tôn chỉ của thầy với tư cách là một luật sư, và lưu truyền phương châm sống và học tập của thầy sống mãi với các thế hệ sau, qua đó chúng ta có thể hiểu rõ hơn về vai trò của người luật sư công chính.

TS LÊ NẾT - HẢI GIANG


Truong Huy San cùng với Châu Micae và 
2 người khác
.

 
LUẬT SƯ NGUYỄN NGỌC BÍCH [1944-2023]
Chiều qua, khi nghe tin, luật sư Nguyễn Ngọc Bích từ trần, tự nhiên tôi nhớ tới cuộc nói chuyện với ông gần 20 năm trước, rồi, tìm mở kinh thánh, tìm lại bài giảng về Tám Mối Phúc Thật:
“Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa... Quả vậy, các ngôn sứ là những người đi trước anh em cũng bị người ta bách hại như thế.”
Như rất nhiều trí thức miền Nam khác, ba ngày trước tổng tuyển cử, 26-4-1976, Luật sư Nguyễn Ngọc Bích bị bắt. Ông Bích từng làm cho cơ quan trợ giúp Mỹ USAID trong chương trình “cấp căn cước cho người từ mười sáu tuổi trở lên” và, năm 1972, sau khi tốt nghiệp cử nhân luật, ông nhận được học bổng đi học thêm một năm tại Đại học Harvard, Mỹ. Tháng 4-1975, ông là “chuyên viên đặc nhiệm” cho Tổng cục Dầu hỏa và Khoáng sản.
Trước đó, 2-1976, ông Nguyễn Ngọc Bích được mời lên cơ quan công an. Cán bộ hỏi cung đặt vấn đề: “Tại sao 15-4 mới được nhận vào mà Tổng cục đã cho làm chuyên viên đặc nhiệm ngay?”. Làm sao mà ông trả lời được câu hỏi đó.
Luật sư Nguyễn Ngọc Bích bị giam trong xà lim loại dành cho tử tù suốt một năm và khi bị hỏi cung: “Anh biết gì về kế hoạch hậu chiến; trong đó, anh được giao nhiệm vụ gì?”, ông đoán ra, “Cách mạng nghĩ ông là người do Mỹ cài lại”. Hai năm sau, khi đã được đưa ra phòng giam chung, khi “được” thẩm vấn, luật sư Nguyễn Ngọc Bích nói: “Lưng tôi bị gù thế này làm sao được tuyển làm tình báo!” Khi ấy, những người hỏi cung dường như vô tình nói ra lý do khiến ông bị bắt: “Anh là người do Mỹ đào tạo, anh sẽ chống chúng tôi đến cùng”.
Luật sư Nguyễn Ngọc Bích bị giam cầm suốt 13 năm, từ 1976 cho đến năm 1988.
Khi được hỏi làm sao mà ông có thể đi qua được những tháng năm oan khuất, luật sư Nguyễn Ngọc Bích nói với tôi, “Kinh thánh. Hằng ngày, tôi đọc đi đọc lại Tám Mối Phúc Thật.”
“Phúc cho anh em khi vì Thầy mà bị người ta sỉ vả, bách hại và vu khống đủ điều xấu xa…”
Trong hơn 30 năm biết ông, tôi chưa bao giờ thấy ông than phiền, oán trách. Sau khi ra tù, ông chọn ở lại Việt Nam. Và, khi đất nước đổi mới, bằng trí tuệ và kiến thức học được từ các “thế lực thù địch”, ông đã giúp những nhà lãnh đạo ở trong cái thể chế đã bắt bỏ tù mình, giúp các thế hệ luật sư hiểu như thế nào là pháp quyền, như thế nào là kinh tế thị trường, bằng cách nào để dẫn dắt một công ty đúng cách.
Từ hôm qua, rất nhiều luật sư có tiếng từ Bắc chí Nam cùng viết trên Face gọi ông là “THẦY”, dù nhiều người trong số họ chỉ học ông qua những cuốn sách của ông và qua những bài ông viết trên báo chí, chủ yếu trên Thời báo Kinh Tế Sài Gòn, từ thập niên 1990s.
Khi cầm bút, dù là những vấn đề mới mẻ, phức tạp ông đều trình bày giản dị và mạch lạc. Khi ngồi với những học trò trẻ tuổi, cho dù vẫn là con người uyên bác ấy, ông trở nên rất ân cần, gần gũi. Chính ông tự phá bỏ khoảng cách trí tuệ và hàng rào thế hệ để những người trẻ tuổi vẫn có thể dễ dàng tiếp cận và học được từ ông.
Cho dù, đóng góp rất nhiều để xây dựng nền tảng pháp luật, luật sư Nguyễn Ngọc Bích luôn tin rằng:
“Nền kinh tế thị trường kiểu gì thì cũng chỉ hoạt động được trên nền tảng đạo đức cá nhân. Mỗi người tự mình phải biết kiềm chế mình. Nền kinh tế của ta đang phát triển nhưng vấn đề đạo đức cá nhân chưa được coi trọng. Muốn có đạo đức thì phải bắt đầu từ giáo dục…”
“Ai có lòng khó khăn, ấy là phúc thật… Ai hiền lành, ấy là phúc thật… Ai khao khát nhân đức trọn lành, ấy là phúc thật… Ai thương xót người, ấy là phúc thật… Ai giữ lòng sạch sẽ, ấy là phúc thật… Ai làm cho người hòa thuận, ấy là phúc thật… Ai chịu khốn nạn vì đạo ngay, ấy là phúc thật...”
Tôi đọc thêm một lần “Tin Mừng” để cố gắng hiểu ông. Giờ đây thì ông đã coi “Nước của Đức Chúa Trời là của mình” rồi.
Photo: Luật sư Nguyễn Ngọc Bích và một trong những học trò của ông, luật sư Ngô Thanh Tùng [ảnh xin từ facebook Tung Ngo].


Ông không chỉ nổi tiếng trong giới luật sư là người hay bàn về các vấn đề của doanh nghiệp và doanh nhân mà còn là người đã cùng nhóm chuyên viên kinh tế “ Thứ Sáu” sinh hoạt với nhau gần 20 năm nay – có những đóng góp vào công cuộc đổi mới kinh tế.

Luật sư Nguyễn Ngọc Bích - Văn phòng luật sư Phương Thuần & Bích: 'Tâm hồn rộng mở thì trí óc mới sáng suốt' - 1
Tranh: Hoàng Tường

Đất nước thân yêu, nơi ông đã chọn để cống hiến cũng là nơi ông trải qua những tháng ngày nghiệt ngã, nhưng sức sống kỳ lạ và một trái tim luôn rộng mở đã mang lại cho ông sự bình thản, ung dung tự tại, và biến ông thành một “thầy thuốc” giữa đời, với những bài viết gần gụi, chia sẻ, khiến người ta quên đi những hận thù, nhớ lại và yêu thương, tin cậy chính mình và tin cậy con người.

Cuộc đời với những thăng trầm đã như những lớp sóng dồn đắng và chát, để rồi chính ông lại nhận ra từ đó một đại dương ấm áp tràn ngập tình yêu cuộc sống. Duyên dáng, chân thật, giọng nói sắc bén và khúc chiết, ông lôi cuốn không chỉ bằng một trí tuệ uyên thâm mà còn bằng khả năng “đọc” được những ưu tư phiền muộn của người khác, khả năng xoa dịu những cơn đau và giúp người ta bình yên trở lại.

____
Trong giới làm ăn thường truyền tụng nhau một giờ tư vấn của ông giá một trăm USD, vậy một ngày làm việc của ông giá bao nhiêu?

(Cười) Bí mật! Tùy từng khách hàng mà mình tính tiền theo giờ hay theo vụ. Thường thì khách hàng nước ngoài có thể tính theo giờ, vì họ đã quen với cách tính này. Còn khách hàng trong nước thì tính theo vụ để họ biết được mức tối đa phải trả. Tất nhiên cách tính nào cũng phải hợp lý, nếu không họ sẽ… mắng vào mặt mình ấy chứ. Tất cả tùy thuộc vào sự “phải chăng” mà mình phải biết, không phải có ưu thế, người ta cần mình mà “hét” giá nào cũng được.

Luật sư được biết đến không phải nhờ quảng cáo, mà do người khách trước giới thiệu cho người khách sau. Giao tiếp giữa luật sư và khách hàng là giao tiếp dựa trên niềm tin, và khả năng của luật sư được đánh giá ngay trong quá trình làm việc. Tư vấn mà làm dở khách hàng biết ngay, họ chỉ không biết điều họ đang hỏi, chứ những điều khác họ biết hơn luật sư. Người quản lý luật sư nghiêm khắc nhất chính là khách hàng chứ không phải Đoàn Luật sư hay Sở Tư pháp.

____
Sau một loạt các vụ thua kiện kinh tế khi làm ăn với nước ngoài của các doanh nghiệp Việt Nam, theo ông, làm thế nào để “xóa mù” về luật pháp quốc tế cho các doanh nghiệp? Và ngược lại doanh nghiệp có thể tin cậy vào đội ngũ luật sư của Việt Nam hiện nay?

Thực ra việc sử dụng luật sư nên được xem như “phòng bệnh hơn chữa bệnh”. Nhưng hiện nay doanh nghiệp sử dụng luật sư cũng giống như bác sĩ vậy thôi, khi nào có bệnh mới chữa. Chỉ khi làm ăn khá giả họ mới nghĩ đến việc dùng luật sư trước mỗi giao dịch để có thể lường trước mọi rủi ro và tìm biện pháp khắc phục ghi trong chính hợp đồng khi thương thảo với bên kia. Nếu sử dụng luật sư tư vấn nhiều thì các tranh chấp ở tòa án sẽ bớt đi. Vai trò của luật sư rất âm thầm, nhưng nó giúp sự phát triển của xã hội được điều hòa.

Với các vụ thua kiện đã xảy ra, cái gốc của vấn đề là doanh nghiệp thực hiện giao dịch mà chưa lường hết những bất trắc có thể xảy ra khi giao dịch. Điều này tùy thuộc vào sự hiểu biết của doanh nhân và trình độ lẫn kinh nghiệm của luật sư trong từng lĩnh vực kinh doanh.

Hiện nay xã hội nổi cộm những vấn đề về hình sự, dân sự, nhà đất nhiều hơn là kinh doanh. Ở các lĩnh vực ấy thì luật sư Việt Nam đáp ứng được, nhưng sang lĩnh vực kinh doanh sẽ khó khăn, vì nó đòi hỏi luật sư phải có những kiến thức về công ty, việc kinh doanh, quản trị, tập tục kinh doanh quốc tế, những luật để điều chỉnh các hoạt động ấy.

Luật thì có thể biết, nhưng kiến thức về tập tục kinh doanh thì không dễ chút nào, vì các trường Luật, Học viện Tư pháp không cung cấp đủ cho họ những hiểu biết ấy. Về phương pháp, trường đại học Luật của mình chỉ đào tạo cán bộ pháp lý, chứ không đào tạo luật sư. Khi hành nghề, cán bộ pháp lý nắm luật pháp trước, rồi hướng dẫn cho người ta làm đúng luật; còn luật sư thì phải nắm sự việc trước, phân tích nó, rồi mới chiếu vào luật để tìm ra giải pháp cho người ta. Để mở mang kiến thức, kinh nghiệm, luật sư phải tự học, tự làm, không ai có thể giúp được. Nếu không vươn ra với bên ngoài, sử dụng tài liệu nước ngoài, sẽ bị hụt hẫng.

TƯ VẤN MÀ LÀM DỞ KHÁCH HÀNG BIẾT NGAY, HỌ CHỈ KHÔNG BIẾT ĐIỀU HỌ ĐANG HỎI, CHỨ NHỮNG ĐIỀU KHÁC HỌ BIẾT HƠN LUẬT SƯ.

____
Theo ông vì sao hệ thống luật pháp của ta xa rời và đi sau các hoạt động kinh tế?

Luật pháp của mình thường xuất phát từ những quan chức Nhà nước. Không phải là doanh nhân đã từng có thực tế, nên họ khởi đầu bằng quan niệm và triết lý trước, từ đó xây dựng nên định chế. Ít nhiều đó chỉ là những định chế trong ước mong của họ nên khi đưa vào thực tế nó sẽ không phù hợp, lại phải thay đổi.

Chỉ mới gần đây các bộ, các viện mới cộng tác với các phòng thương mại, các chuyên gia trong quá trình ban hành và tu chỉnh luật. Không thể dùng luật pháp để xây dựng một xã hội ta muốn có; mà phải ban bố luật cho một xã hội đang hoạt động và đẩy nó đi theo cái hướng mình muốn; do vậy, phải chú ý nhiều đến tâm lý của người thi hành luật chứ không phải vào ý chí, vào cái mình muốn. Người làm kinh doanh ở đâu cũng giống nhau, làm sao mua bán phải thuận tiện, không bị bực mình về những lời hứa.

Thường thường, doanh nhân giàu có trong khi làm ăn thì đi tìm sự thuận tiện, không quan tâm tới giá cả, còn người nghèo chỉ quan tâm tới giá cả và chỉ lo người ta giật của mình thôi. Hai tâm lý này không bao giờ đi chung được với nhau. Làm ăn với nước ngoài mà luật pháp không nắm cái tâm lý ấy và không chọn lựa thì mình mãi chỉ chơi được với những doanh nhân nhỏ, chứ không đủ tầm chơi với doanh nhân lớn. Tâm không rộng, trí không cao thì mình sẽ không chơi được với những người có tầm cỡ, không có được những giao dịch mang lại mối lợi lớn.

Kinh doanh cuối cùng trở thành vấn đề của những người sang chơi với nhau, tiền đã có nhiều rồi, họ chơi với nhau vì vui, vì thích. Mình chưa đạt được mức độ đó, nên cứ loay hoay ở dưới. Năm 1990 họ chưa biết mình nên đã vào rất nhiều, nhưng vào rồi mới thấy mình “phấn son lòe loẹt, chứ quê thấy mồ, lại còn đành hanh thấy bực, rất khó chơi”. Mình không chỉ để lỡ cơ hội, mà không đủ tầm vóc để chơi khi cơ hội đến.

____
Ông đã từng có loạt bài viết rất ấn tượng “Tại sao phép nước chưa nghiêm?” cách đây gần 15 năm trên báo Lao Động. Ông có thể tóm lược một vài nét chính được không?

Phép nước chưa nghiêm cũng nằm trong những lý do tôi vừa nêu. Thứ nhất, luật pháp của chúng ta lúc đầu muốn thiết lập một mô hình kinh tế – xã hội mới khác với thực tế đang có. Thí dụ một chế độ đất đai mà ở trong đó sẽ không có sự chuyển nhượng đất. Các định chế luật pháp của chúng ta trung bình cứ 10 năm đổi một lần như hiện nay là những cố gắng sửa chữa hậu quả của khởi điểm kia.

Thứ hai, công dân và tài sản của họ không gắn với nhau. Trước kia công dân không có tài sản; cho nên nền hành chính và tư pháp không có những định chế đăng ký tài sản. Chẳng hạn, có một thời chỉ có doanh nghiệp mới được mở tài khoản tại ngân hàng; thành thử sau này khi cá nhân có tài sản thì họ có nhiều chỗ giấu tìm không ra. Vì sự tách rời này nên không áp dụng được các biện pháp hành chính hay tư pháp đánh vào tài sản cá nhân để tác động lên họ.

Chúng ta không có biện pháp gián tiếp đánh vào con người mà chỉ có những biện pháp trực tiếp đánh vào chính họ; mà những biện pháp này có khi khốc liệt (bỏ tù) có khi không có hiệu nghiệm (quản chế). Điều này khiến cho các thẩm phán không dám mạnh tay áp dụng các biện pháp cưỡng chế luật cho phép.

Thứ ba, vì thẩm phán khó áp dụng biện pháp nên người dân có khuynh hướng coi thường tòa án; không tôn kính tòa án như là một cơ quan tượng trưng cho quyền uy của quốc gia. Có thẩm phán biết trong tâm lý người dân, tòa án không được coi trọng nên có khi cảm thấy cũng không cần phải cầm cân nảy mực một cách công minh sáng suốt. Các lý do trên đã trong một thời gian dài tác động lẫn nhau tạo nên một tập quán phổ biến mà bây giờ chúng ta đang phải khắc phục.

LUÔN CỐ GẮNG SỐNG TỐT VỚI NHỮNG NGƯỜI MÀ MÌNH GẶP VÀ TIẾP XÚC; ĐỂ TRONG BẤT CỨ HOÀN CẢNH GIAN NAN NÀO THÌ TÂM HỒN MÌNH CŨNG THANH THẢN.

____
Là người tham gia trực tiếp vào quá trình giao tiếp hội nhập, và đã dám nói một cách thẳng thắn về những sai lầm của một thời, vì sao một người trí thức từng phải trải qua 12 năm học tập cải tạo như ông lại có được những suy nghĩ như vậy ?

Khi mình nói ra với tấm lòng ngay thẳng, công bằng với chính mình, có lương tâm và trách nhiệm, thì khó khăn có, nhưng không dài, và mình sẽ được hiểu.

Năm 1975, lúc ấy tôi có thể đi, nhưng tôi đã chọn ở lại quê nhà. Chính 12 năm đó đã giúp tôi khám phá ra cuộc sống, những giá trị đạo đức căn bản. Trong môi trường ấy, tiền tài, danh vọng, sự học đều trở thành phù du; chỉ có lòng tốt, sự chân thật mới giúp mình tồn tại. Tôi hiểu rõ hơn về chế độ mình sống, so sánh nó với những cái khác và tôi tiên đoán những gì có thể xảy ra. Tôi nhìn cuộc sống với sự tò mò, thích thú, chứ không oán ghét, giận dỗi.

Tin tưởng “Sự công chính là mộc che thuẫn đỡ cho ta”, cộng với sự học hỏi không ngừng, tôi đóng góp cho xã hội một tấm lòng. Và trên căn bản ấy cũng chưa có ai phiền hà tôi về những điều mình đã viết, đã trả lời phỏng vấn trên báo đài quốc tế. Tôi biết tôi ở đâu, và phải làm gì để xứng đáng với nhân phẩm của mình, và là người công dân tốt.

____
Trong mười hai năm ấy và những gian khó sau này, có bao giờ ông thất vọng?

Không. Khi mình đã cố gắng làm điều tốt, thì mình không biết điều xấu, nên ít khi lo nó có thể xảy ra cho mình để mà thất vọng. Việc làm tốt tạo cho ta một niềm tin khiến lúc nào cũng thấy tương lai. Luôn cố gắng sống tốt với những người mà mình gặp và tiếp xúc; để trong bất cứ hoàn cảnh gian nan nào thì tâm hồn mình cũng thanh thản.

Mà tâm hồn có thanh thản thì trí óc mới sáng suốt, để biết lợi dụng hoàn cảnh gian nan đem lại cái lợi cho mình. Sự đày đọa sẽ trở thành may mắn. Từ những gì mình đã trải qua, tôi nghiệm ra rằng khi định làm một việc gì, ta không thể biết nó thành hay bại, vì thành hôm nay có thể là bại ngày mai; nhưng ta biết nó có tốt cho người khác không? Nếu tốt thì cứ làm. Hơn nữa, cuộc đời là một sự chấp nhận, thích nghi và giải thích.

Giải thích ấy là hạnh phúc thì đó là hạnh phúc! Ăn thua trong lòng mình là khi nghĩ lại về ai mình không bao giờ xấu hổ, bởi mình đã thành thật với họ, giúp họ tránh điều xấu, dẫu họ có đau lòng; mình làm cho họ, chứ đâu cho mình. Tôi không để lòng mình bị vướng bận bởi những điều vớ vẩn, thất bại lớn nhất trên đời là chết, mà chưa gặp thì không lo.

____
Ông là tác giả của nhiều cuốn sách nổi tiếng về kinh tế, pháp luật, thị trường chứng khoán… đã được đồng nghiệp đánh giá cao, lại viết báo cho phụ nữ, với những lời tâm tình rất thấu hiểu về tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc gia đình. Đó có phải cũng là quá trình ông khám phá bản thân mình?

Viết cũng là cách mình đóng góp với cuộc đời, vì mình đã được nhận rất nhiều từ chính cuộc đời. Khi viết tôi làm chủ được mình hơn. Tôi chỉ viết những gì tôi chú ý, có chú ý mới tạo được những tâm tình. Nhà nghèo, hết trung học tôi đã phải đi làm để báo hiếu. Tôi bị gù lưng, mặc cảm tự ti từ từ tràn vào nên không hề biết.

Tôi nghĩ mình xấu xí; nên tự nhủ không thể làm điều xấu. Tình cảm bị đụng chạm sớm và teo đi. Bù lại, để mà sống, lý trí vượt trỗi lên, khiến tôi trở thành con người của ý chí và nghị lực. Làm cho Mỹ, trình độ văn hóa của họ cao, tôi phát triển mạnh trong môi trường ấy. Vừa làm tôi vừa theo học trường luật, và lấy được học bổng ở Harvard. Ngay khi đi học tôi đã quyết phải trở về đất nước.

TÔI CHỦ TRƯƠNG CHO CON PHẢI SỐNG KHỔ, PHẢI BIẾT CÁI KHỔ, ĐỂ SAU NÀY KHÔNG GÂY KHỔ CHO NGƯỜI KHÁC.

____
Ông yêu vẻ đẹp nào của người phụ nữ? Ông đã tạo ra một bầu không khí như thế nào trong gia đình cho con cái lớn lên?

Cái đẹp của người phụ nữ thay đổi theo tâm lý của họ mà chỉ có người đàn ông mới nhận ra. Người phụ nữ phải giữ cho tâm hồn mình vui thì cái đẹp của họ sẽ hiện ra lung linh mà chính họ không biết. Người đàn ông dù tài giỏi đến đâu cũng cần đến sự hiền dịu của người vợ. Họ muốn được chăm sóc, chia sẻ, “làm nũng vợ” sau những bươn chải ngoài đời.

Đàn ông càng già càng thích làm nũng vợ (cười), và ngược lại người đàn bà càng vui khi được chiều chồng. Đó chính là hạnh phúc. Chỉ khi gia đình hạnh phúc, con cái mới được giáo dục đầy đủ, để tạo ra những công dân tốt. Vợ chồng tôi luôn đồng ý với nhau về một số giá trị cơ bản, như thế là đã bớt ghen tuông rồi. Người chồng phải làm sao bảo bọc cho vợ, sống trách nhiệm. Tôi không tìm vinh danh cho mình qua con, tôi quan tâm đến hạnh phúc của con.

Con tôi có thể làm bất cứ công việc gì nếu cháu cảm thấy hạnh phúc. Nhưng tôi chủ trương cho con phải sống khổ, phải biết cái khổ, để sau này không gây khổ cho người khác. Quá trình sống của con phải đi theo khuôn đó cho đến khi trưởng thành. Tôi chỉ mong con giữ được truyền thống gia đình, anh em thương nhau, hiếu thảo với bố mẹ, họ hàng như với một con người.

____
Điều gì đã giúp một người tự ti như ông trở thành mạnh mẽ, duyên dáng và luôn dấn thân như thế?

Tôi không hề biết rằng mình duyên dáng đấy (cười đầy tự tin), đấy là bạn bảo tôi! Tôi chỉ trải lòng một cách ngay thẳng, vui vẻ, kể cả khi nói đến những thiếu sót của mình. Cái thật mới khiến người ta nhớ. Giao tiếp cũng thế, nói thật với người khác thì trán không nhăn, mắt không có chân chim. Mình đã được những người khác giúp đỡ để có được những điều đang có, tôi không bao giờ thấy đủ và luôn tiếp tục trau dồi, đến một lúc nào đó thì sẽ bị thúc đẩy phải đóng góp.

Tôi đóng góp chân tình, xây dựng, không cay nghiệt vì biết nếu mình có làm chưa chắc đã bằng người ta. Thường khi bắt đầu tiếp xúc với ai, tôi bắt đầu bằng tâm lý “có thể thua”, từ đó định hình tính cách, không đòi hỏi, không xu nịnh, cùng lắm thì “tôi vậy đấy”. Phải sống tốt để cái tâm yên. Khi tâm hồn trải rộng thì trí óc mới sáng suốt. Đừng bao giờ đưa cái gì ra rồi đòi lại ngay, mà cứ đưa đi, chịu thiệt một tí; một ngày nào đó sẽ được đền đáp.

Đòi trả ngay, lấy lại hết là hỏng. Giao tiếp giữa người và người không phải là một đường thẳng có đi có lại tức thời, mình đưa ra theo đường thẳng, nhưng cái gì trở lại với mình phải đi theo hình bán nguyệt. Hiện nay xã hội mình chưa tốt đẹp là do người ta nhắm đến đường thẳng quá nhiều, đó không phải là giao tiếp mang tính nhân bản.

Trải qua cùng một hoàn cảnh, người ta có nhu cầu được gặp nhau, và nếu đã qua đau khổ thì đều muốn đóng góp. Vì không có ràng buộc nào nên người ta đã ràng buộc. Nhóm “Thứ Sáu” của chúng tôi sinh hoạt theo tâm tình ấy. Nhóm chúng tôi là “thiên đàng” vì hay có nhiều bữa ăn. Tất nhiên không phải chúng tôi chủ trương ăn, mà là thường cố gắng tạo ra “thiên đàng”.

Trong “thiên đàng” ấy, chúng tôi chia sẻ với nhau nỗi vui niềm lo, cái mới, chuyện xưa về đất nước, về con người và cả những cơn bực không biết trút đi đâu. Nơi đó chúng tôi đóng góp vào việc chung với lương tâm và theo đòi hỏi của lương tâm mình. Chúng tôi vẫn nói, dù biết có thể được nghe và có thể không. Vì làm việc đó không kiếm lợi nên vui vẻ làm và không mong đợi một phần thưởng.