Tin buồn
Trần Hữu Dũng
(1945-2023)
Chúng tôi đau đớn báo tin với bạn bè và bạn đọc bốn phương : anh Trần Hữu Dũng đã từ trần sáng ngày 28 tháng 2 năm 2023 tại nhà riêng ở Dayton (bang Ohio, Hoa Kỳ), thọ 78 tuổi.
Trần Hữu Dũng là giáo sư Emeritus kinh tế học trường Wright State University, tổng biên tập trang mạng tiếng Anh ALD (Arts & Letters Daily), và trang mạng tiếng Việt Viet-Studies, chủ nhiệm tạp chí Thời Đại Mới, thành viên Ban tổ chức Hội thảo Hè, đồng thời là thành viên ban biên tập Diễn Đàn.
Diễn Đàn chia sẻ nỗi mất mát với chị Phương Mai, các cháu và toàn thể gia đình.
Diễn Đàn
Giáo sư Trần Hữu Dũng, người đứng trước Vạn Lý Hỏa Thành
- Joaquin Nguyễn Hòa
- Gửi bài từ California, Hoa Kỳ
Nếu có người hỏi tôi rằng ai gây ảnh hưởng lớn đến giới trí thức trong nước Việt Nam cuối thế kỷ 20, đầu thế kỷ 21, tôi sẽ không ngần ngại trả lời rằng đó là giáo sư Trần Hữu Dũng, ở Dayton, Ohio, Hoa Kỳ.
Không phải ông có ảnh hưởng từ lý thuyết, hay tư tưởng của ông, ông cũng không phải là một nhà cách mạng, mà là do con thuyền tri thức mà ông gầy dựng, trang Viet-Studies. Miệt mài mấy mươi năm không nghỉ, trang Viet-Studies chuyên chở bao nhiêu tri thức nhân loại đến với giới trí thức Việt Nam, già lẫn trẻ, khao khát đằng sau… bức màn tre.
Giáo sư Trần Hữu Dũng qua đời vào sáng ngày 28/2/2023, tại Hoa Kỳ.
Giống như nhiều trí thức cùng thế hệ, Trần Hữu Dũng cũng đứng giữa hai làn nước, dù không nhiều bi kịch như người bạn thân thiết của ông là giáo sư Ngô Vĩnh Long (qua đời trước giáo sư Dũng vài tháng). Cha ông là bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, tham gia cách mạng cộng sản và được đặt tên cho một con đường vùng Gò Vấp, Sài Gòn. Giáo sư Dũng cũng chịu tiếng là … thân cộng với những chỉ trích từ một số người chống cộng hăng hái tại hải ngoại.
Nhưng theo tôi nhà cầm quyền cộng sản tại Việt Nam sợ ông giáo sư “thân cộng” đó hơn là những nhà chống cộng kia.
Trang Viet-Studies của ông cung cấp cho người Việt trong nước những bài phân tích từ đủ mọi khuynh hướng của báo chí thế giới, từ những loại khó đọc như The Economics đến những tờ rất nhanh nhạy tin tức toàn cầu, như Washington Post, New York Times. Có những website phải trả tiền mới đọc được thì giáo sư Dũng lấy bài rồi chuyển ra dạng PDF cho độc giả khao khát kiến thức mà ít tiền ở Việt Nam.
Trang Viet-Studies cũng là một cái cửa mở cho giới sĩ phu trong nước, hay giới khoa bảng người Việt ở nước ngoài nhưng vẫn canh cánh lo âu những bề bộn trong nước: Nguyễn Quang Dy, Vũ Ngọc Hoàng, Nguyễn Khoa, Trần Văn Chánh, Nguyễn Minh Nhị, Nguyễn Ngọc Tư … với những bài phân tích, hay bình luận đầy tính phản biện.
Cái cửa mở đó là nơi mà giới học giả nước ngoài quan tâm tới Việt Nam, có người đọc được tiếng Việt, qua đó mà nhìn vào bên trong Việt Nam: Carl Thayer, David Brown,...
Dĩ nhiên kiến thức và tư duy phản biện là những vũ khí ghê gớm nhất, mạnh mẽ nhất, và thế là “người ta” … sợ!
Trang Viet-Studies liên tục bị … tường lửa, mà có lần giáo sư Dũng nói với tôi là cũng dữ dằn không kém Vạn lý hỏa thành của những người cộng sản Trung Quốc. Chủ nhân Viet-Studies có lúc cũng bị làm khó làm dễ chuyện đi về Việt Nam. Lúc người ta tổ chức vinh danh cho cha ông là bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, người ta không thèm mời ông con trai… phản động.
Tôi bắt đầu quen biết giáo sư Dũng từ những năm RFA của tôi, và quan hệ của chúng tôi kéo dài mãi đến những ngày trước khi ông ra đi.
Dĩ nhiên chúng tôi trao đổi với nhau về những vấn đề liên quan đến Việt Nam, đến tình trạng bế tắc của nó mà có lần ông nói với tôi là ông… chịu hết nổi rồi. Với cả chục năm chọn lọc tin tức, phổ biến kiến thức về Việt Nam, ông có những quan hệ rất thú vị và bất ngờ trong giới báo chí.
Có lần ông cho tôi biết chuyện một đại gia Việt Nam định blackmail (đe nẹt) một nhà báo nước ngoài, dọa sẽ tiết lộ ra anh ta là gay, không ngờ anh nhà báo đã không sợ mà còn ra tay trước tiết lộ rằng đại gia nọ định mướn anh làm … bồi bút. Lần khác ông cho tôi biết chuyện một nhà báo khác, rất cẩu thả, gắn chữ vào nhà văn Nguyễn Ngọc Tư.
Ngày 12/10/2022, một người bạn chung của chúng tôi là giáo sư Ngô Vĩnh Long qua đời, anh Trần Hữu Dũng nhập viện vì bệnh tim. Tuy nhiên anh không công khai ra công chúng, mà chỉ tuyên bố Viet-Studies tạm nghỉ vài ngày. Cách nay mấy hôm, Viet-Studies thông báo lần nữa là tạm ngưng.
Lần này thì nó có thể ngưng mãi mãi.
Nếu ai đó tiếp tục chèo con thuyền Viet-Studies của giáo sư Dũng, thì ắt cũng khó mà có được những tiếng cười sảng khoái mỗi buổi sáng hàng ngày với những cái như là…. Cách mạng 4.0 (?), Số hóa (của bộ trưởng Nguyễn Mạnh Hùng),…
Giáo sư Trần Hữu Dũng ra đi làm tôi nhớ lại công cuộc cải cách Minh Trị ở Nhật Bản, khi các trí thức Nhật cố công dịch toàn bộ trước tác của Tây phương ra tiếng Nhật. Nhưng các samurai Nhật Bản mấy thế kỷ trước làm việc có bang có hội, có Minh Trị Thiên Hoàng đứng sau lưng. Giáo sư Dũng thì đứng trước … Vạn lý hỏa thành!
Liệu có phải ông là người cuối cùng? Con thuyền trí thức Việt, Viet-Studies, liệu có là … con thuyền không bến?
*Bài thể hiện quan điểm riêng của tác giả, một nhà báo từ San Jose, California, Hoa Kỳ.
Trần Hữu Dũng | |
---|---|
Trần Hữu Dũng Braga 21.7.2019 | |
Sinh | 1945[1] Mỹ Tho, Việt Nam |
Mất | 28 tháng 2 năm 2023 (77–78 tuổi)[2] Hoa Kỳ |
Nghề nghiệp | Giáo sư kinh tế học |
Nổi tiếng vì | Chủ nhân trang Viet-studies |
Trần Hữu Dũng là một giáo sư kinh tế học gốc Việt của Đại học Wright State tại Dayton, Ohio, Mỹ. Ông chuyên về nghiên cứu kinh tế vùng Đông Á, đặc biệt là Việt Nam, đồng thời là một nhà nghiên cứu có nhiều đóng góp về tư duy kinh tế cho Việt Nam.
Tiểu sử[sửa | sửa mã nguồn]
Trần Hữu Dũng (sinh 1945 ở tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang) - mất 28.02.2023 Dayton , bang Ohio, Hoa Kỳ) là con của bác sĩ Trần Hữu Nghiệp (với người vợ đầu), một nhà giáo trí thức Cách mạng lão thành của Nhà nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Khi ông còn nhỏ thì cha của ông tập kết ra Bắc[3].
Ông sang Mỹ du học từ năm 1963. Sau khi tốt nghiệp kỹ sư điện tử và cử nhân vật lý năm 1967, ông về nước làm chuyên viên tại Trung tâm Nghiên cứu Nguyên tử Đà Lạt. Năm 1972, ông trở qua Mỹ lần nữa và tốt nghiệp tiến sĩ kinh tế tại Đại học Syracuse năm 1978. Từ năm 1982 đến nay, ông dạy môn kinh tế vĩ mô, kinh tế quản lý và kinh tế thế giới cho bằng thạc sĩ quản trị kinh doanh tại Đại học Wright State.[4]
Ông là biên tập viên quản lý của cổng web nổi tiếng Arts & Letters Daily[5], trang web được tờ New York Times khen tặng là "Điểm hẹn của trí thức toàn cầu" và được trao giải Webbys trong lĩnh vực Internet.[6]
Ông đồng thời là người sáng lập và điều hành trang mạng Viet-studies (viet-studies.info, nay là viet-studies.net) cập nhật thường xuyên các bài báo, báo cáo nổi bật trong và ngoài nước về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội, và văn hóa Việt Nam, một trang bị tường lửa chặn, nên người Việt trong nước không tiếp cận được. [7].
Đóng góp về tư duy kinh tế cho Việt Nam[sửa | sửa mã nguồn]
Trần Hữu Dũng cũng đóng góp cho Việt Nam những tư duy kinh tế trong việc hoà nhập với nền kinh tế thế giới thông qua việc viết bài cho các tờ báo kinh tế ở trong nước. Ngoài ra, ông thường xuyên cùng một số trí thức trong và ngoài nước tổ chức các hội thảo khoa học đánh giá về tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam.[6]
Xem thêm[sửa | sửa mã nguồn]
- Nguyễn Đăng Hưng
- Vũ Quang Việt
- Trần Văn Thọ
- Cao Huy Thuần
- Ngô Vĩnh Long
- Nguyễn Văn Tuấn
- Vũ Quốc Thúc
- Lê Văn Cường
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ Trần Hữu Dũng (1945-2023), diendan.org, 1 Tháng 3 2023
- ^ Giáo sư Trần Hữu Dũng, người đứng trước Vạn Lý Hỏa Thành, BBC, 1 Tháng 3 2023
- ^ GẶP TRẦN HỮU DŨNG VÀ... NGUYỄN NGỌC TƯ Ở MỸ Lưu trữ 2014-04-16 tại Wayback Machine, Võ Đắc Danh, vannghesongcuulong, 06.07.2010
- ^ Một giáo sư kinh tế Mỹ "mê" Nguyễn Ngọc Tư[liên kết hỏng]
- ^ Arts & Letters Daily
- ^ a b Điểm hẹn của trí thức toàn cầu[liên kết hỏng]
- ^ Gặp gỡ đầu xuân ông Trần Hữu Dũng, BBC, 25 Tháng 1 2009
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
Trần Hữu Nghiệp
Nhà Giáo Nhân Dân
Ông Trần Hữu Nghiệp có bút danh là Hằng Ngôn. Sinh ngày 15-3-1911 (Tân Hợi) trong một gia đình trung nông tại xã Tân Thủy, huyện Ba Tri, tỉnh Bến Tre, là con trai thứ ba của ông Trần Văn Nghĩa (1865-1927) và bà Phạm Thị Phường (1877-1954).
Vì năm Tân Hợi này là năm nhuận (có đến hai tháng 6) nên lúc ở nhà, cha mẹ cũng thường gọi tên ông là Nhuần.
Năm lên 10, khi đã biết đọc biết viết (nhờ cha dạy tại nhà) ông được gởi vào học tiểu học ở trường huyện Ba Tri, sau đó chuyển lên học tiếp ở trường tỉnh Bến Tre.
Năm 1926, vì tham gia vào lực lượng học sinh sinh vìên tổ chức lễ truy điệu và để tang cụ Phan Châu Trinh, nhà chí sĩ yêu nước nổi tiếng trong phong trào Duy Tân nên ông đã bị đuổi khỏi trường công của Bến Tre. Ông lên Sài Gòn, xin vào trường Tư thục Huỳnh Khương Ninh và học nhảy lớp.
Năm 1928, ông thi đậu Brevet élémentaire với điểm cao (hạng nhì) nên được ông Huỳnh Khương Ninh, lúc ấy là hội đồng thành phố Sài Gòn, vận động xin cho học bổng và vào học tiếp ở trường Chasseloup Laubat.
Năm 1931, sau khi đổ tú tài, ông thi đổ và vào học Đại học Y khoa ở Hà Nội.
Năm 1937, tốt nghiệp Bác Sĩ và được sang Paris (Pháp) để tu nghiệp thêm.
Năm 1939, ông trở về nước, hành nghề, mở phòng khám bệnh tư tại thành phố Mỹ Tho.
Năm 1945, Cách Mạng Tháng Tám thành công, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa ra đời, ông tham gia công tác tuyên truyền ở Mặt trận Việt Minh tỉnh Mỹ Tho.
Ngày 23-9-1945, tiếng súng kháng chiến của Nam bộ nổ ra đầu tiên ở Sài Gòn, và một tháng sau đó (23-10-1945), giặc Pháp đưa quân tái chiếm tỉnh Mỹ Tho, thì ông cũng chính thức thoát ly gia đình, rời bỏ cuộc sống giàu sang ở thành thị để ra đi theo tiếng gọi của cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp với công tác đúng ngành nghề của ông là cứu chữa các chiến sĩ vệ quốc đoàn.
Tháng 3-1946, trong lúc đang phụ trách công tác cứu thương ở mặt trận cù lao An Hóa (lúc này còn thuộc tỉnh Mỹ Tho), ông được gọi về khu, tham gia một phái đoàn của miền Trung Nam bộ (khu 8), cùng với ông Ca Văn Thỉnh và bà Nguyễn Thị Định của Bến Tre, được cử ra Hà Nội gấp để báo cáo tình hình với Chính phủ Trung ương và xin chi viện vũ khí cho Nam Bộ.
Sau một thời gian ngắn chuẩn bị khẩn trương, vào một ngày cuối tháng 3 năm 1946, chiếc thuyền chở đoàn, xuất phát từ Cồn Lợi (thuộc xã Thạnh Phong, huyện Thanh Phú, tỉnh Bến Tre), giong buồm chạy xa ra ngoài biển Đông để tránh những tàu tuần tiểu của Pháp, rồi hướng thắng về phía Tây bắc.
Đoàn đã đổ bộ lên Phú Yên, lúc này vẫn còn là vùng giải phóng của ta, theo xe lửa ra Quảng Ngãi, gặp Bộ Tư Lệnh khu 5, được Tướng Nguyễn Sơn tiếp đón và tổ chức cho đi tiếp ra Hà Nội.
Tại thủ đô, đoàn đã được lãnh đạo của chính phủ và quốc hội đón tiếp chu đáo thân tình, và được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp thăm hỏi trò chuyện. Sau đó ông được giữ lại công tác ở Cục Quân Y Quân Đội Nhân Dân Việt Nam.
Trong những tháng ngày này, Nhà nước Công Nông đầu tiên và còn non trẻ của ta đang phải đương đầu với muôn vàn khó khăn thử thách bởi thù trong giặc ngoài. Vì vậy theo yêu cầu của tình hình nhíệm vụ cách mạng lúc bấy giờ, ông đã được động viên để nhận thêm nhiệm vụ tham gia vào Ban chấp hành Trung ương Đảng Xã hội Việt Nam vừa mởi được thành lập để làm nơi tập họp giớỉ nhân sĩ trí thức và các nhà công thương tiến bộ, gia nhập vào mặt trận kháng chiến cứu nước, chống thực dân Pháp.
Khi cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ (19-12-1946) ông rời Hà Nội, vào thanh tra công tác Quân Y ở Liên khu 4, Bắc Bộ (Thanh-Nghệ-Tỉnh). Một thờỉ gian sau đó, theo nguyện vọng, ông được tiếp tục lên đường trở về chiến trường Nam bộ với chức vụ Tổng Thanh Tra Quân Y Việt Nam.
Giữa năm 1947, ông cùng vớí bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, vừa từ Sài Gòn mới ra chiến khu, bắt tay xây dựng ngành dân y, đào tạo cán bộ quản lý và nhân viên y tế. Ông được cử làm Phó Giám Đốc Sở Y Tế Quân dân Nam bộ, trực tiếp phụ trách các tỉnh thuộc khu 8. Ông đã mở nhiều lớp đào tạo y tá, cứu thương, hộ sinh cho các tỉnh Mỹ Tho, Bến Tre, Trà Vinh, Vĩnh Long, Sa Đéc, và các đơn vị bộ đội thuộc khu 8. Ngoài công tác huấn luyện dạy học, ông còn trực tiếp tham gia điều trị cứu chữa thương binh, bệnh binh ở Quân Y Viện Trung đoàn 99 và Quân Y Viện II - khu 8.
Năm 1951, chiến trường Nam Bộ được phân chia lại thành 2 phân liên khu (miền Đông và miền Tây) ông được chuyển về miền Tây - phụ trách đào tạo cán bộ y sĩ cho ngành.
Năm 1954, Pháp thua trận ở Điện Biên Phủ, hiệp định Genève về Việt Nam được ký kết, ông tập kết ra Bắc.
Năm 1955, ông được giao chức vụ Trưởng Ban Huấn luyện Bộ Y Tế nước VNDCCH và ủy viên Ban biên tập tạp chí Y học thực hành.
Tháng 9-1955, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thành lập, ông được bầu làm ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Mặt trận.
Năm 1956, ông được bổ nhíệm làm Hiệu trưởng Trường Cán bộ Y Tế Trung ương ở Hà Nội. Đây là Trung tâm đào tạo và bổ túc cho cán bộ trung, cao cấp dân y lớn nhất của cả nước lúc bấy giờ.
Năm 1958 ông lại được kiêm nhiệm thêm chức vụ ủy viên cố vấn Bộ Y Tế.
Trong những năm sống ở miền Bắc, ông đã có nhiều lần được cử đi công tác hoặc tham quan tu nghỉệp thêm ở các nước bạn: Trung Quốc, Liên Xô, Cộng hòa Dân chủ Đức, Ba Lan, Tiêp Khắc ...
Đến năm 1964, ông được chuyển sang làm Phó Chủ Nhiệm khoa Nội của bệnh viện Bạch Mai (Hà Nội). Đây cũng là nguyện vọng của ông, là bước tích lũy thêm thực tế kỹ thuật điều trị lâm sàng, để qua năm sau (1965) ông lại lên đường về Nam, chiến trường chính của cuộc đọ sức vô cùng quyết liệt của quân dân ta chống quân xâm lược Mỹ đang bắt đầu tiến hành cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam Việt Nam.
Trở về Nam, ông được phân công làm Hiệu Trưởng Trường Đào tạo Cán bộ y tế trung và cao cấp của Miền, đồng thời tham gia hướng dẫn điều trị tại Bệnh viện dân y Hoàng Lệ Kha.
Nãm 1966, trong dịp kỷ niệm 21 năm ngày thành lập Nhà nước VNDCCH (Quốc khánh 2-9-1966), ông đã vinh dự được đứng vào hàng ngũ tiền phong của giai cấp công nhân. Lễ kết nạp ông vào Đảng Cộng Sản Việt Nam, được tổ chức tại một vùng căn cứ của Mặt trận dân tộc gíải phóng miền Nam Việt Nam ở miền Đông Nam bộ.
Tháng 6-1969, khi Chính phủ Cách Mạng lâm thời Cộng hoà miền Nam ra đời, ông được chỉ định làm Cố vấn cho Bộ Y Tế.
Trong những năm hoạt động ở chiến khu trong suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954), rồi chống Mỹ (1955-1975) ông luôn hòa nhập vào cuộc sống đầy khó khăn gian khổ, thậm chí có lúc cực kỳ ác liệt, mà mọi người cán bộ, chiến sĩ cách mạng phải chịu đựng.
Ngoài công tác lãnh đạo và giảng dạy, ông cũng từng phải đào hầm trú ẩn chống máy bay địch đánh phá. Ông cũng từng phải cuốc đất trồng rau, chăn nuôi heo gà, giăng câu, bẫy thú để góp phần cải thiện bữa ăn cho gia đình và các lớp học trò của ông.
Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng (30-4-1975) đất nước thống nhất một nhà, về lại Sài Gòn ông vẫn tham gia giảng dạy bộ môn Tâm lý Y học và Y đức học ở Trường Kỹ thuật Y Tế và Trường Quản lý ngành Y Tế phía Nam cho đến khi về nghỉ hưu năm 1979.
Là một bác sĩ y khoa, ông Trần Hữu Nghiệp còn tham gia viết nhiều sách, báo. Quyển sách văn học đầu tiên là một tập ký, nhan đề “Hồ Chủ Tịch trong lòng dân tộc” với bút hiệu Hằng Ngôn, gồm 20 bài ghi chép những điều tai nghe mắt thấy về uy tín của lãnh tụ và mối quan hệ gắn bó giữa lãnh tụ với quần chúng nhân dân trong chuyến đi từ Nam ra Bắc và từ Bắc vào Nam năm 1946-1947 của ông. Sách đã được Đoàn văn hóa kháng chiến tỉnh Bến Tre xuất bản năm 1948.
Ngoài những tập sách truyền bá kiến thức y học như “Phép nuôi con” (NXB Khoa học phổ thông ở Sài Gòn 1943), “Chữa bệnh cho con khi xa thầy thuốc” (xuất bản ở Hà Nội năm 1962, sửa chữa và tái bản ở TP Hồ Chí Minh năm 1975), “Chủ động bảo vệ hạnh phúc gia đình” (NXB TP Hồ Chí Minh năm 1978), “Nói chuyện với người uống rượu” (NXB TP Hồ Chí Minh năm 1981), “Nói chuyện với người hút thuốc” (NXB TP Hồ Chí Minh năm 1983), ông còn có tập ghi chép “Binh chủng đặc biệt của đội quân tóc dài” năm 1990, “Lịch sử phụ nữ ngành Y Tế miền Nam trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ” năm 1991, “Thời gian trong mắt tôỉ” (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí Minh năm 1993). Ngoàì sách ra còn rất nhiểu bài báo của ông được đăng tảí trên các báo: Đại Đoàn Kết, Pháp Luật, Sài Gòn Giải Phóng, Tuổi Trẻ, Văn Nghệ ...
Xét công lao của ông đã đóng góp cho ngành y tế ngay từ Cách Mạng Tháng Tám - 1945, nhất là trên lãnh vực đào tạo cán bộ, mà một số khá nhiều học trò của ông đã trở thành những người đảm đương trọng trách y tế ở nhiều cấp nhiều địa phương, có người là Anh hùng lao động, Chiến sĩ thi đua, là Thầy thuốc nhân dân, Thấy thuốc ưu tú, có người trở lại chiến trường bám dân, bám đất, xây dựng cơ sở cách mạng, nêu cao tấm gương kiên trung, bất khuất v.v. . . Hội Đồng Nhà Nước đã phong tặng cho ông danh hiệu “Nhà Giáo Nhân Dân” ngành y tế năm 1988, cùng với nhiều huân huy chương cao quý khác, trong đó cố huân chương Chiến Thắng hạng nhất, Kháng chiến hạng nhất, Độc lập hạng nhì v.v. . .
Về đời riêng, ông đã có hai lần hôn nhân, lần đầu năm 1939 với bà Lê Thị Nhi, người ở xã Tân Hào, huyện Giồng Trôm, tỉnh Bến Tre, có được 3 con (1 gái. 2 trai) và lần sau với bà Nguyễn Thị Lê cũng người Tân Hào, có được 3 con gái. Tất cả các con cháu ông đều trưởng thành, thành đạt và có cương vị trong xã hội.
Trong cuộc sống đờì thường, ông là một con người bình dị, cởi mở, tính tình thẳng thắn, có nếp sống cần kiệm, liêm khiết, với đạo đức trong sáng. Ông cũng là một thầy thuốc giỏi, có nhiều kinh nghiệm, với quan điểm và tấm lòng thương yêu, tận tụy vì bệnh nhân, học nhiều, hiểu rộng, có trí nhớ tốt. Ông cũng là một nhà giáo có kiến thức uyên thâm, có phương pháp sư phạm khoa học, luôn coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, giữa kỹ thuật với y đức, tác phong giảng dạy sâu sát nhiệt tình với cách thức phong phú sinh động, đôi khi dí dỏm, khiến ngườí nghe khó quên những bài giảng lý thú của ông.
Cuộc đời ông là tấm gương tiêu biểu cúa người trí thức yêu nước, chân chính, đã gác bỏ tất cả danh vọng giàu sang để gắn bó đời mình với công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, đã tận tụy dồn hết tâm trí mình cho sự nghiệp trồng người để chăm lo giáo dục đào tạo đội ngũ những người thầy thuốc tốt, hết lòng phục vụ cho kháng chiến, cho sức khoẻ và hạnh phúc của nhân dân.
Chẳng thế mà, đồng nghiệp và học trò của ông đã nói về ông như sau: “... hoặc như bác sĩ Trần Hữu Nghiệp, quê ở Bến Tre, ông là thầy của các bậc thầy giỏi. Suốt mùa kháng chiến chống Pháp, ngoài giờ lên lớp, chúng ta không thể không xúc động khi thấy ông ở trần, mặc quần tiều, nhổ bông súng, vớt bèo nuôi heo, góp sức tự lực cánh sinh, cải thiện miếng ăn cho thầy và trò. Từ lúc kháng chiến chống Pháp rồi xây dựng hoà bình trên đất Bắc, ông luôn đảm trách công việc đào tạo đội ngũ cán bộ cho ngành y tế. Học trò của ông, khi nhớ lời thề Hyppocrate và đạo đức, quan điểm phục vụ của Hải Thượng Lãn Ông, đều không thể quên được người thấy - chú Chín - bác sĩ Trần Hữu Nghiệp...”
Trích bài "Vâng - Khó nhưng phải làm"
của Vũ Kim Sa - Báo Tuổi Trẻ ngày 31 - 8- 1999
Đánh giá giới trí thức nhân sĩ, trong đó có ông đã tham gia cách mạng, Cố vấn Võ Văn Kiệt - Nguyên ủy viên Thường vụ Bộ Chính Trị, Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam - Nguyên Thủ Tướng Chính Phủ nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam, đã phát biểu trong cuộc họp với các nhà văn tại Thành phố Hồ Chí Minh ngày 25-8-1999 để phát động cuộc vận động công tác viết về những nhà trí thức nhân sĩ đến với cách mạng, trước mắt là trong thời kỳ Nam bộ kháng chiến và Cách Mạng Tháng Tám.
“... Tôi đi cách mạng thì không có gì để mất ... nhưng với các đồng chí ấy - những nhà trí thức, địa chủ, chức sắc tôn giáo ... phải nói là họ đã có những hy sinh rất lớn mà vẫn đi suốt cuộc đời với cách mạng. Bỏ tất cả, hiến tất cả để ra đi. Điều đó lớn lắm, tiêu biểu bản sắc và truyền thống của một miền Nam anh hùng luôn đi trước về sau, cũng như cho cả một cuộc chiến đấu của dân tộc, cũng là thể hiện vai trò và khả năng tập họp lớn của Đảng, yếu tố quyết định cho sự thành công của sự nghiệp cứu nước...”
Trích bài " Khó - nhưng phải làm"
của Nguyễn Đông Thức - Báo Tuổi trẻ ngày 26-8-1999.
Có lẽ các ý kiến trên đây, cũng đã khái quát nói lên những phẩm chất đáng quý đồng thời ghi nhận sự cống hiến đáng trân trọng - mà đó cũng là tấm lòng của ông bác sĩ Trần Hữu Nghiệp Nhà Giáo Nhân Dân, người con ưu tú của quê hương Bến Tre đối với đất nước, dân tộc trong suốt chặng đường tham gia cách mạng hơn nửa thế kỷ vừa qua.
Ngày 10 Tháng 01 Năm 2001
Bác sĩ Trần Văn Lễ
Hồi ký: Thời Gian Trong Mắt Tôi
Anh Dũng
Nguyễn Ngọc Giao
Anh Dũng mất đi, không bất ngờ nhưng thật đột ngột. Từ mấy năm nay, sức khỏe của anh suy yếu dần. Bệnh tiểu đường dẫn tới mắt, tim, phổi. Năm 2021, chúng tôi định tổ chức Hội thảo Hè – anh chị em Berlin đã sẵn sàng đăng cai – sau hai năm tạm ngưng vì đại dịch Covid19, nhưng phải quyết định ngưng. Một trong những lý do là sự vắng mặt bất khả kháng của anh Ngô Vĩnh Long và anh Trần Hữu Dũng. Ang Long bị vướng một khóa dạy hè không thể đổi ngày. Anh Dũng không thể kham nổi đường bay Dayton – Berlin với hai chặng ngừng kéo dài nhiều giờ. Mùa thu năm ngoái, anh phải nhập viện gắn stent, mạng Viet-Studies ngưng nửa tháng “vì bận việc”. Cuối tuần qua, anh chuẩn bị vào bệnh viện để ngày thứ hai 27.02.23, bác sĩ gắn máy trợ tim (pace maker). Cuộc phẫu thuật thành công, anh về nhà ngay buổi chiều. Tối hôm qua, 28.2., tôi nấn ná đợi đến nửa đêm (6 giờ chiều, giờ miền Đông Hoa Kỳ) để điện thoại hỏi thăm, thì được thư điện của chị Phương Mai : “ Anh Trần Hữu Dũng, người chồng tốt và tri kỷ 50 năm của tôi, đã từ trần đột ngột sáng nay, 2/28/2023, lúc 8:52, cardiac arrest (...) anh qua đời thật nhanh và bình thản ”. Cầm tay chị, anh còn nói rõ ý nguyện được hỏa táng và chôn cất ở Bến Tre, bên mộ bà ngoại mà anh rất yêu thương.
Hình cái cây sân nhà do anh Trần Hữu Dũng
chụp ngày tết Quý Mão 22.1.2023
*
Sinh ngày 30.3.1945, Trần Hữu Dũng lớn lên ở miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp, xa người cha là bác sĩ Trần Hữu Nghiệp đi kháng chiến và tập kết ra Bắc. Du học ở Mỹ lần thứ nhất, anh trở về làm việc ở Viện nghiên cứu nguyên tử lực Đà Lạt, rồi lại qua Mỹ làm luận án tiến sĩ kinh tế học (Syracuse, 1978). Anh là giáo sư Emeritus trường đại học Wright State University, Dayton, Ohio, chuyên về kinh tế Đông Á. Trong cộng đồng trí thức quốc tế, Trần Hữu Dũng được biết như là một trong ba người chủ trương và biên tập trang mạng nổi tiêng Arts & Letter Daily (ALD) hàng ngày cung cấp cho bạn đọc những bài viết giá trị về văn hóa, văn học và nghệ thuật. ALD, với tiêu ngữ Veritas odit moras (tiếng Latinh : Chân lý chán ghét sự trì hoãn), là trang mạng có uy tín, mỗi ngày có hàng vạn người tham khảo.
Trong cộng đồng Việt Nam, đặc biệt trong giới trí thức quốc nội, Trần Hữu Dũng được biết như người chủ biên các trang mạng Hội thảo Mùa Hè, tạp chí Thời Đại Mới, và nhất là mạng Viet-Studies (V-S), với hai trang Kinh tế Việt Nam và Văn hóa & Giáo Dục. V-S hàng ngày cung cấp cho bạn đọc khoảng 20 bài báo, bài nghiên cứu, đầu sách... Việt Nam và quốc tế liên quan chủ yếu tới Việt Nam, với đôi khi, một dòng bình luận dí dỏm, hơi chút mỉa mai... rất Trần Hữu Dũng. Đó là điều dị ứng đối với bộ máy kiểm duyệt ở Việt Nam. Nhưng lý do chủ yếu khiến cho V-S thường xuyên bị tường lửa ngăn chặn là : V-S cung cấp cho bạn đọc những nguồn tin tham khảo đa dạng, đa nguyên, điều tối kỵ trong một thể chế toàn trị, trấn áp tự do thông tin và tư tưởng. V-S còn là trang mà độc giả có thể vào đọc những tác giả và tác phẩm : Nguyễn Ngọc Tư, Trần Đức Thảo, Phan Khôi, Lữ Phương, Trần Hữu Nghiệp, Nguyễn Trung, Heinz Schütte, Vương Trí Nhàn...
Liên tục trong hơn hai thập niên, Trần Hữu Dũng tham gia ban tổ chức Hội thảo Mùa Hè, từ lần đầu (New York, 1998) đến lần chót (Porto, 2019). Anh là người nhận bài vở tham luận từ bốn phương, là người “hoạt náo” trong các buổi chủ tọa phiên họp, hay trong những bài tham luận độc đáo.
*
Trần Hữu Dũng và Dương Tường tại Hà Nội (2013)
Tôi gặp anh lần đầu, tôi không nhớ chắc, có lẽ là trong Hội thảo Hè năm 1998 ở Trường đại học New York. Điều chắc chắn, là, gần như ngay từ đầu, chúng tôi đã thân thiết nhau. Cũng lạ, vì giữa chúng tôi, có nhiều khoảng cách. Nơi xuất phát : anh là người Nam Bộ thứ thiệt, tôi Bắc Kỳ di cư thực thụ. Tuổi tác : anh thua tôi 5 tuổi (chị Phương Mai vừa cho biết thêm : và 1 ngày, anh Dũng thường nói). Nghề nghiệp : cùng một nghiệp (dạy học) nhưng khác nghề (anh làm kinh tế học, tôi cứ tạm gọi là làm toán). Địa dư : cách nhau 10 giờ bay... Vậy mà chúng tôi gần gụi nhau, mặc dầu hầu như chưa bao giờ tâm sự, hỏi chuyện nhau về đời riêng. Chưa bao giờ chúng tôi có dịp đến Dayton thăm nhà anh chị, cũng như chưa bao giờ anh chị đến nhà chúng tôi ở Maisons Alfort, hay Paris. Nhưng căn phòng làm việc của anh ở nhà đã trở thành quen thuộc với tôi sau một hai lần liên lạc với nhau qua WhatsApp. Chúng tôi trao đổi với nhau ba mươi năm qua, chủ yếu qua internet, mỗi lần đôi ba câu ngắn gọn. Trao đổi bất cân bằng, vì chủ yếu là tôi hỏi xin bài viết này, cuốn sách nọ, trong những tạp chí mà tôi không mua dài hạn (mà anh, với ngân quỹ ALD, có thể đọc bất cứ tạp chí gì), hay những cuốn sách mà tôi chỉ muốn đọc một vài phần. Nghề làm báo, quy tắc đạo đức số 1 là không tiết lộ nguồn tin hay tên tuổi tác giả (nếu tác giả giấu tên thực). Trong hoàn cảnh Việt Nam, đó không chỉ là đạo lý nghề nghiệp, mà còn liên quan tới an ninh, thậm chí sinh mạng, của tác giả. Nhưng phải thú thật là chúng tôi thường xuyên và an tâm vi phạm quy tắc này, vì biết rằng mọi thông tin như vậy, người nhận được đều xóa ngay và không bao giờ thông báo cho ai khác. Còn gì trong những trao đổi ngắn ấy ? Thi thoảng anh khoe mấy hôm nay Viet-Studies không bị tường lửa ở Việt Nam. Tất nhiên là chỉ tạm thời, mấy ngày sau, vẫn chứng nào tật ấy. Chúng tôi không đủ số liệu để so sánh, nhưng vẫn đeo đuổi một cuộc chạy đua : Viet-Studies hay Diễn Đàn (mà anh cũng là biên tập viên), tờ nào bị tường lửa nặng nhất ? Diễn Đàn còn bị tường lửa ở Trung Quốc nữa, nhiều bạn đọc cho biết rõ. Còn anh, hình như vẫn ấm ức vì chưa có tin cụ thể về số phận ở Trung Quốc của Viet-Studies !
Anh Dũng mất đi, tôi hẫng hụt, như bạn bè anh trên thế giới. Riêng tôi, còn vì một lý do cụ thể : hàng ngày, để chọn 5-6 bài cho mục Thấy Trên Mạng, tôi đọc chừng 20-30 bài, nhưng trước hết là chọn trong 10-20 bài mà anh nối kết trên V-S. Anh Dũng có một sức đọc xuất chúng, một phần cũng nhờ một đặc chất “trời cho” : mỗi ngày anh chỉ ngủ 3-4 giờ.
*
Hôm nay, mồng một tháng 3-2023, ở Hà Nội, gia đình và bạn bè tiễn đưa nhà thơ Dương Tường về cõi vĩnh hằng. Mấy ngày trước, Trần Hữu Dũng đã đưa tấm hình (ở trên) lên trang mạng FB của anh.
Hôm nay, ở Dayton, các cháu ở California đã về bên chị Phương Mai để chuẩn bị ngày tiễn đưa anh Dũng. Chúng tôi, người Tokyo, người Hà Nội, Vũng Tàu, New York, Genève, Praha, Porto... chúng tôi ở bên chị, trong tâm tưởng, và mãi mãi trong ký ức.
Paris, 1.3.2023