Chủ Nhật, 1 tháng 6, 2014

Đa dạng để có sức đề kháng







TS. Nguyễn Thị Hậu
(TBKTSG) - Nhiều nhà nghiên cứu lịch sử - văn hóa đã nhận định rằng, trong số các quốc gia ở Đông Nam Á, Việt Nam có thể coi là quốc gia chịu ảnh hưởng văn hóa Hán mạnh nhất. Tất nhiên sự hấp thụ văn hóa Trung Quốc của Việt Nam không giản đơn là kết quả của thời kỳ 1.000 năm “Bắc thuộc” hay là hệ quả tất yếu của giao lưu tự nhiên do gần gũi về địa lý “núi liền núi sông liền sông”. Trên thực tế, quá trình “tiếp biến văn hóa” diễn ra phức tạp hơn nhiều.
Trên đại thể, quá trình giao lưu giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Trung Quốc diễn ra trong một thời gian rất dài và chịu sự chi phối của tình thế chính trị nên luôn ở hai trạng thái: bị đồng hóa và chống đồng hóa, giao lưu tự nguyện và giao lưu cưỡng bức. Mức độ và cường độ của các trạng thái này khác nhau ở mỗi thời kỳ, mỗi giai đoạn lịch sử. Có thể thấy rằng những thành tựu của văn hóa Việt Nam có được từ sự giao lưu với văn hóa Trung Quốc chính là quá trình tiếp nhận và sáng tạo, chọn lọc những gì phù hợp, đồng thời sắp xếp lại những giá trị văn hóa theo quan niệm văn hóa bản địa. Vì vậy, có thể hiểu như là quá trình “Việt hóa” các yếu tố văn hóa Trung Quốc.
Nghiên cứu văn hóa Đông Nam Á, nhiều học giả đã nhận xét: Đông Nam Á = Hoa + Ấn, với hàm nghĩa phía Bắc Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa còn phía Nam chịu ảnh hưởng văn hóa Ấn Độ. Điều này cũng đúng với Việt Nam. Ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc không đồng đều giữa các vùng lãnh thổ: phía Bắc “nặng” hơn, sâu hơn phía Nam, do 1.000 năm Bắc thuộc và chống Bắc thuộc, từ sau thế kỷ 10 sự mô phỏng mô hình nhà nước Trung Hoa được các triều đại nhà nước quân chủ Đại Việt đẩy mạnh, thể chế các triều đại phong kiến Đại Việt xây dựng theo “hình mẫu” của Trung Quốc - một quốc gia có nền văn minh vào loại sớm và lớn của thế giới.
Trong khi đó, khu vực phía Nam từ thế kỷ 15 trở về trước, với nhà nước Chăm Pa (khu vực miền Trung), nhà nước Phù Nam (một phần ở Nam bộ) chịu ảnh hưởng của văn hóa và thể chế nhà nước Ấn Độ lâu dài và sâu sắc hơn, giống như nhiều quốc gia khác ở Đông Nam Á. Sự ảnh hưởng này nhạt dần rồi mất đi khi nhà nước “vương quyền kết hợp với thần quyền” kiểu Ấn Độ không còn tồn tại, văn hóa khu vực này trở về với các yếu tố văn hóa truyền thống của Đông Nam Á.
Do hoàn cảnh lịch sử mà sự ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc đối với 54 tộc người của quốc gia Việt Nam cũng khác nhau, trong đó người Việt (Kinh) thể hiện sự tiếp biến với văn hóa Trung Quốc tuy chỉ là “lớp phủ bên ngoài” nhưng khá dày, như nhiều nhà nghiên cứu đã minh chứng. Việc giao lưu với văn hóa Trung Quốc của người Việt (Kinh) diễn ra trong một thời kỳ dài khoảng 2.000 năm vừa hòa bình vừa chiến tranh, khởi nghĩa chống lại sự xâm lược của các triều đại phong kiến phương Bắc. Từ thế kỷ 15, cuộc “Nam tiến” của chúa Nguyễn rồi Triều Nguyễn trong đó người Việt (Kinh) là chủ thể, văn hóa của các tộc người phía Nam vốn chịu nhiều ảnh hưởng của văn hóa Ấn Độ dần dần được phủ một lớp văn hóa Việt (Kinh), một cách tự nhiên do sự cộng cư của/với người Việt. Sau “500 năm như thế” ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc ở vùng đất phía Nam vẫn mỏng hơn so với phía Bắc, văn hóa các tộc người phía Nam luôn là sự hòa trộn những yếu tố văn hóa dân gian bản địa và sự cởi mở “không từ chối” tiếp nhận những yếu tố văn hóa khác, mặc dù có thể nhận thấy văn hóa (người) Việt vẫn là chủ đạo.
Ngoài ra, lưu dân người Việt và người Hoa di cư xuống phía Nam thời các chúa Nguyễn đã mang theo nhiều yếu tố văn hóa truyền thống. Phần lớn là nông dân, thương nhân, thợ thủ công, số ít là tầng lớp quan lại người Hoa “phản Thanh phục Minh”, vì vậy, những yếu tố văn hóa dân gian Việt, Hoa được duy trì trong làm ăn, trong đời sống dân thường nên dễ dàng giao hòa với văn hóa Chăm, Khmer và các tộc người khác, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa Nam bộ. Văn hóa Đại Việt ở phía Nam (của các chúa Nguyễn) là sự hòa hợp của các nền văn hóa Việt - Chăm - Hoa nên phần nào thoát khỏi tư tưởng coi mô thức văn hóa Trung Hoa là “chuẩn mực”.
Theo chiều dài lịch sử và chiều rộng của lãnh thổ, có thể hình dung nền văn hóa Việt Nam như một “cơ thể sống” mà văn hóa của những tộc người những vùng miền qua nhiều giai đoạn lịch sử trở thành hệ thống mạch máu nuôi sống nền văn hóa một cách mạnh khỏe để có thể chống lại và vô hiệu hóa những “virus văn hóa lạ”, không phù hợp . Quá trình tiếp nhận (những) yếu tố văn hóa “ngoại sinh” cũng giống như việc tiêm chủng “vaccin” làm tăng sức đề kháng của văn hóa dân tộc. Để duy trì sức mạnh của văn hóa dân tộc cần thiết phải “giữ gìn và phát huy bản sắc” đồng thời phát huy được tính đa dạng vốn có của các cộng đồng người, các vùng miền, sự phong phú của từng cá nhân. Đó là chủ thể sáng tạo ra văn hóa dù cộng đồng hay cá nhân là tộc người đa số hay thiểu số, nhờ vậy cho đến nay nền tảng xã hội Việt Nam vẫn là các giá trị, truyền thống, tập quán văn hóa bản địa, những yếu tố quan trọng định hình nên bản sắc dân tộc Việt Nam.
Không thể phủ nhận những giá trị tích cực mà văn hóa Trung Quốc đem đến cho văn hóa Việt Nam trong mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, một nền văn hóa mà hàng trăm năm chỉ có một “hình mẫu”, một “chuẩn mực” trong thế giới chuyển biến và rộng mở từng ngày thì không tránh khỏi sự trì trệ, lạc hậu, chưa kể là “hình mẫu” đó ngày nay cũng bộc lộ quá nhiều nhược điểm - như cuốn sách Người Trung Quốc xấu lậu nổi tiếng của nhà văn Bách Dương đã vạch ra. Mặt khác, thừa nhận tính đa dạng của văn hóa truyền thống cũng cần công nhận sự đa dạng của văn hóa đương đại để tránh được sự “độc quyền văn hóa” trong một quốc gia đa tộc người, đồng thời cũng hạn chế sự “độc quyền” tiếp nhận một loại “vaccin văn hóa” nào đó. Khi biết tiếp nhận thêm nhiều hình mẫu chuẩn mực mới thì văn hóa luôn được sáng tạo và phát triển, hành trang mang tới tương lai là những di sản văn hóa thực sự quý giá chứ không chỉ là những mảnh vụn bộn bề của quá khứ.