Thứ Hai, 16 tháng 6, 2014

Quốc hội và công thư Phạm Văn Đồng



 
Nguyễn Vũ
(TBKTSG Online) – Quốc hội đang họp kỳ họp thứ bảy trong bối cảnh Trung Quốc đưa giàn khoản Hải Dương vào sâu thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam. Đặc biệt gần đây trong những lập luận “ngược đời” để xác lập chủ quyền Hoàng Sa, phía Trung Quốc đã viện dẫn công thư mà Thủ tướng Phạm Văn Đồng gởi Thủ tướng Trung Quốc Chu Ân Lai vào ngày 14-9-1958.


Quần đảo Hoàng Sa, thuộc lãnh thổ Việt Nam nhưng bị Trung Quốc chiếm đóng trái phép và tạm thời quản lý. Ảnh lichsuvn.net
Việt Nam cũng như các nhà nghiên cứu đã nhiều lần lên tiếng khẳng định công thư này hoàn toàn không có giá trị về mặt pháp lý đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là nhân dịp Quốc hội đang họp, các đại biểu có nên có những động thái nào để tái khẳng định điều nói trên một cách chính thức?
Có ý kiến cho rằng Quốc hội nên ra một Nghị quyết riêng, phủ quyết công thư của ông Phạm Văn Đồng với lý do Quốc hội thời đó chưa bao giờ có ý kiến chính thức về công thư này. Cũng có ý kiến cho rằng nên khẳng định công thư của cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958 hoàn toàn không đề cập đến vấn đề lãnh thổ, chủ quyền và không đề cập đến hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Ý kiến khác lại cho rằng những lập luận của các học giả về việc công thư không có giá trị pháp lý là rất rõ ràng, Quốc hội nên sử dụng các lập luận này trong một văn bản chính thức, công bố trong kỳ họp này, để xem đó là tài liệu chính thức mà Việt Nam có thể sử dụng sau này trong các tranh biện pháp lý với Trung Quốc.
Trả lời phỏng vấn TBKTSG Online, Luật sư Tạ Văn Tài, nguyên giảng viên và hiện là nghiên cứu viên Trường Luật thuộc Đại học Harvard cho rằng Quốc hội không cần ra tuyên bố nói công thư của ông Phạm Văn Đồng là sai và nay Quốc hội phải ra Nghị quyết để hủy bỏ hay phủ quyết gì cả.
Ông Tài cho rằng cách hay nhất là Quốc hội, với quyền giải thích Hiến pháp và các văn bản pháp quy, các văn kiện luật và dưới luật cho ra một tuyên bố, nói rằng công thư mà cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký năm 1958 chỉ là một tuyên bố đơn phương (unilateral declaration) chỉ nhằm mục đích ủng hộ Chu Ân Lai khi hai nước Việt Nam và Trung Quốc là đồng minh. Phần giải thích của Quốc hội nói rõ công thư chỉ ủng hộ về cái gọi là 12 hải lý lãnh hải mà ông Chu Ân Lai tuyên bố cho Trung Quốc. “Chừng đó cũng đủ để phá luận cứ của Trung Quốc về Hoàng Sa,” luật sư Tài xác quyết.
Trong một văn bản gởi kèm cho TBKTSG Online, Luật sư Tạ Văn Tài đã đưa ra lời giải thích của ông về công thư Phạm Văn Đồng và cách đáp lại những luận cứ của phía Trung Quốc (phần tóm tắt mà chúng tôi đã đăng tải trên TBKTSG Online, tại đây). Bản giải thích đầy đủ của luật sư Tạ Văn Tài được đăng toàn văn dưới đây.
Ông Tài cho rằng Quốc hội Việt Nam chỉ cần ra một tuyên bố chấp nhận lời giải thích của ông Tài với tư cách là một học giả độc lập, mang tính khách quan và ghi vào biên bản phiên họp. Theo ông, đây là một hành vi nghị trường nhẹ nhàng và đúng mực nhưng cũng rất công chính, không sợ phía Trung Quốc xuyên tạc.
**
Luật sư Tạ Văn Tài. Ảnh TL

Phụ lục lời giải thích của Luật sư Tạ Văn Tài về công thư/công hàm của Thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1958
Luận cứ của Trung Quốc khi họ viện dẫn công hàm năm 1958 của ông Phạm Văn Đồng, KỂ CẢ TRONG VỤ BIỆN MINH CHO VIỆC ĐẶT GIÀN KHOAN TRONG VÙNG ĐẶC QUYỀN KINH TẾ CỦA VIỆT NAM, là để nói rằng ông Đồng đã ra công hàm ủng hộ tuyên bố của Thủ tướng Trung quốc Chu Ân Lai, do đó công nhận:
- “Lời tuyên bố chủ quyền Trung Quốc trên các lãnh hải, kể cả lãnh hải tính từ các đảo Hoàng Sa và Trường Sa, và áp dụng cho toàn lãnh thổ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, bao gồm phần đất Trung Quốc trên đất liền và các hải đảo ngoài khơi, Ðài Loan (tách biệt khỏi đất liền và các hải đảo khác bởi biển cả) và các đảo phụ cận, quần đảo Bành Hồ, quần đảo Ðông Sa, quần đảo Tây Sa, quần đảo Trung Sa, quần đảo Nam Sa, và các đảo khác thuộc Trung Quốc.
- Phần biển 12 hải lý tính ra từ các đường cơ sở là hải phận của Trung Quốc
- Nếu không có sự cho phép của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, tất cả máy bay nước ngoài và tàu bè quân sự không được xâm nhập hải phận Trung Quốc và vùng trời bao trên hải phận này. Bất cứ tàu bè nước ngoài nào di chuyển trong hải phận Trung Quốc đều phải tuân thủ các luật lệ liên hệ của Chính phủ Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa.”


Công thư của Thủ tướng Phạm Văn Đồng gửi Tổng lý Chu Ân Lai năm 1958. Ảnh TL

















Ông Phạm Văn Đồng gửi bức công hàm cho Ông Chu Ân Lai nguyên văn như sau:
“Thưa đồng chí Tổng lý,
Chúng tôi xin trân trọng báo tin để đồng chí Tổng lý rõ: Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc.
Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tôn trọng quyết định ấy và sẽ chỉ thị cho các cơ quan Nhà nước có trách nhiệm triệt để tôn trọng hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.”
*  *  *
Nên ghi chú ngay rằng ông Phạm Văn Đồng chỉ nói đến hải phận 12 hải lý mà không nói về đảo, đất. Nhưng chúng tôi xin đi vào chi tiết 2 luận cứ pháp lý để bác luận cứ của Trung Quốc về công hàm Phạm Văn Đồng như sau:
(a) Thứ nhất, và quan trọng nhất, Hiệp định Geneva trao quyền quản lý hành chánh Hoàng Sa và Trường Sa, đều ở phía nam vĩ tuyến 17, cho chính phủ Miền Nam Việt Nam, tức Việt Nam Cộng hòa (VNCH), ở phía nam vĩ tuyến đó, cho nên các hành vi xác lập và hành xử chủ quyền về Hoàng Sa và Trường Sa phải thuộc thẩm quyền VNCH, và chính phủ này cũng như hải quân của họ đã mạnh mẽ xác nhận chủ quyền Việt Nam ở các hải đảo trong và sau biến cố hải chiến 1974. Còn ông Phạm Văn Đồng, đại diện miền Bắc Việt Nam, tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (VNDCCH) lúc đó, không có thẩm quyền hay không có ý định tuyên bố gì về chủ quyền đất đai về Hoàng Sa và Trường Sa thuộc VNCH vào thời điểm đó, mà chỉ dưa ra lời tuyên bố công nhận hải phận 12 hải lý của Trung Quốc.
Tuy nguyện vọng “dân tộc Việt Nam là một, nước Việt Nam là một” là chính đáng, nhưng tình trạng hiện hữu của một quốc gia là một vấn đề sự kiện thực tại (question of fact) trong luật quốc tế, cho nên thực tại có hai nước Việt Nam, VNDCCH và VNCH, trong thời gian 1954-1975, là đúng với luật quốc tế và có lợi về mặt chính trị và pháp luật trong việc bảo vệ chủ quyền đất đai trên Hoàng Sa và Trường Sa bởi VNCH trong thời gian đó, mà ngày nay, sau khi thống nhất dất nước năm 1976, thì VNDCCH rồi Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là quốc gia kế quyền (successor state) trong sự bảo vệ chủ quyền đất đai đó. Sự kế quyền trong việc bảo vệ chủ quyền đất đai này đã được chính Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nói tới.
Vào ngày 25-11-2011 tại Quốc hội, ông Nguyễn Tấn Dũng đã có những phát biểu về Hoàng Sa và Trường Sa: “Việt Nam chúng ta khẳng định có đủ căn cứ về pháp lý và lịch sử khẳng định rằng quần đảo Hoàng Sa và quần đảo Trường Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam. Chúng ta đã làm chủ thực sự ít nhất là từ thế kỷ XVII. Chúng ta làm chủ hai quần đảo này chưa thuộc bất kỳ một quốc gia nào và chúng ta đã làm chủ trên thực tế và liên tục hòa bình. Nhưng đối với Hoàng Sa, năm 1956 Trung Quốc đưa quân chiếm đóng các đảo phía Đông của quần đảo Trường Sa. Đến năm 1974 cũng Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm toàn bộ quần đảo Hoàng Sa trong sự quản lý hiện tại của chính quyền Sài Gòn, tức là chính quyền Việt Nam Cộng hòa. Chính quyền Sài Gòn, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã lên tiếng phản đối, lên án việc làm này và đề nghị Liên hợp quốc can thiệp. Lập trường nhất quán của chúng ta là quần đảo Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, chúng ta có đủ căn cứ lịch sử và pháp lý để khẳng định điều này. Năm 1975 giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc thì hải quân chúng ta đã tiếp quản 5 hòn đảo tại quần đảo Trường Sa, đó là đảo Trường Sa, đảo Song Tử Tây, đảo Sinh Tồn, đảo Nam Yết và đảo Sơn Ca, năm đảo này do quân đội của chính quyền Sài Gòn, chính quyền Việt Nam Cộng hòa đang quản lý chúng ta tiếp quản. Sau đó với chủ quyền của chúng ta, chúng ta tiếp tục mở rộng thêm lên 21 đảo, với 33 điểm đóng quân. Ngoài ra chúng ta còn xây dựng thêm 15 nhà giàn ở khu vực bãi Tư Chính để khẳng định chủ quyền của chúng ta ở vùng biển này, vùng biển trong phạm vi mà 200 hải lý thuộc thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của chúng ta. Trong khi đó ở quần đảo Trường Sa, Trung Quốc cũng đã chiếm 7 bãi đá ngầm, Đài Loan chiếm 1 đảo nổi, Philippines chiếm 9 đảo, Malaysia chiếm 5 đảo, còn Brunei có đòi hỏi chủ quyền trên vùng biển nhưng không có chiếm giữ đảo nào”.
Khi một quốc gia đã hội đủ 4 điều kiện sau đây của Hiệp ước Montevideo 1933 (nó xác lập truyền thống luật quốc tế mấy thế kỷ về tình trạng quốc gia/statehood), thì phải được coi là một quốc gia (state) thành viên trong cộng đồng quốc tế: (a) một dân số ổn định vĩnh cửu (a permanent population); (b) một lãnh thổ rõ rệt (a defined territory); (c) một chính quyền (a government); và (d) có khả năng giao dịch với quốc gia khác (capacity to enter relations with other states). VNCH là một thực thể có đủ 4 điều kiện này. Còn vấn đề các nước khác nhìn nhận một state có đủ bốn điều kiện trên để lập bang giao thì là một vấn đề chính trị và tiêu chuẩn chính trị thêm vào bốn tiêu chuẩn luật, và chính phủ nào ghét một nước nào mà không nhìn nhận thì cũng không thể xóa bỏ tư cách state của nước đó - đó là trường hợp Cuba bị Mỹ ghét, không nhìn nhận, mà Mỹ đâu có xóa tư cách state của Cuba được. Tòa án Mỹ vào các năm 1920’s công nhận chính phủ Bolshevik của Liên xô có đặc miễn như chủ thể quốc tế khi có các vụ kiện đòi các tiền ký thác khi xưa trong ngân hàng ở Nga bị Bolsheviks quốc hữu hóa, mặc dù chính phủ Mỹ hồi đó chưa nhìn nhận nước Liên xô.
Nước VNCH 1954-75 đã được mấy chục nước nhìn nhận ngoại giao, có lúc Liên xô đã đề nghị cả hai nước Việt Nam vào Liên hiệp quốc. Việc có vô Liên hiệp quốc hay không vô được (thí dụ bị một trong 5 quốc gia hội viên thường trực của Hội đồng Bảo an phủ quyết) , thì là chuyện chính trị, không phải là tiêu chuẩn về sự khai sinh một nước/state.
Những ai, cứ viện dẫn Hiệp định Genève nói sẽ có một nước Việt Nam sẽ được thành lập với tuyển cử thống nhất hai phần đất tạm thời chia cắt, mà coi nước VNCH như không có trong trời đất là không hiểu luật quốc tế mấy trăm năm về statehood và lẫn lộn tiêu chuẩn pháp lý về statehood trong luật quốc tế với những sự sắp xếp chính trị của các cường quốc trong một hiệp định giữa vài nước mà thôi, đã cố tình quên cái thực tại chính trị là đã có mấy chục nước nhìn nhận sự khai sinh của VNCH, và cũng quên mất luật quốc tế theo nghĩa là một số ít nước ký Hiệp định Geneve không thể truất cái quyền tối cao (sovereign) của mấy chục nước kia đã nhìn nhận VNCH.
Bây giờ ông Thủ tướng Dũng nói, và trước đây giả thử tiền nhiệm của ông là ông Đồng nói một cách minh thị hơn nữa, nói đến hai nước Việt Nam trong giai đoạn 1954-1975, thì cũng không giảm giá trị của sự nghiệp thống nhất đất nước vào năm 1975-76 vì trong lịch sử thế giới, đã có nhiều quốc gia chia ra nhiều mảnh rồi lại thống nhất, và cũng có quốc gia chia ra hai, thí dụ Pakistan chia thành hai, nửa kia thành Bangladesh, Sudan trước là một thì nay là hai quốc gia, mà các quốc gia đó vẫn có vị trí được nhìn nhận trong cộng đồng các quốc gia; và các lãnh tụ chính trị đưa hai quốc gia của một dân tộc đến thống nhất, mà biết tôn trọng quyền lợi của cả dân tộc sau khi thống nhất, thì cũng được lịch sử khen ngợi—như Lincoln, sau Chiến tranh Nam Bắc Mỹ, đã nói “Cùng nhau, chúng ta sẽ săn sóc cho cô nhi, quả phụ của cả hai bên”
Vậy xin nhắc lại là ông Đồng, đại diện miền Bắc Việt Nam, tức Việt Nam Dân chủ Cộng hòa lúc đó, phải được giải thích là không có thẩm quyền hay không có ý định tuyên bố gì về chủ quyền đât đai về Hoàng Sa và Trường Sa thuộc VNCH, một quốc gia khác vào thời điểm đó, mà chỉ dưa ra lời tuyên bố công nhận hải phận 12 hải lý của Trung Quốc. Có giải thích như vậy mới không bị Trung Quốc bắt bí, và cứ quy cho Việt Nam cái thế “há miệng mắc quai” vì lối giải thích công hàm Phạm Văn Đồng của Trung Quốc.
(b) Thứ hai, một bản tuyên bố đơn phương (unilateral declaration) như Công hàm Phạm Văn Đồng không có hiệu lực pháp lý về mặt quốc tế. Trong luật quốc tế, không thể cố áp dụng lý thuyết estoppel, tức là lý thuyết trong luật pháp quốc nội của một số quốc gia có quy định là “Đã nói ra thì không nói ngược lại được”, vì lý thuyết này không áp dụng trong luật quốc tế theo cùng các điều kiện như trong luật quốc nội, vì có những điều kiện ngặt nghèo, và do đó không thể coi lời nói đơn phương có hiệu lực ràng buộc đương nhiên trong luật quốc tế.
Tòa án quốc tế trong một vụ xử giữa Đức và Đan Mạch/Hà Lan về thềm lục địa đã nói như vậy. Ngoài ra, theo một án lệ khác, khi xét ý nghĩa của lời tuyên bố đơn phương, tòa án quốc tế phải xét một cách chặt chẽ ý định (intention) của người tuyên bố.
Theo án lệ NUCLEAR TESTS CASE AUSTRALIA& NEW ZEALAND v. FRANCE 1974 I.C.J. 253, thì “dĩ nhiên là không phải hành vi đơn phương nào cũng tạo ra nghĩa vụ; nhưng một quốc gia có thể chọn theo một lập trường về một vấn đề nào đó với ý định sẽ tự ràng buộc—miễn là ý định này phải xét kỹ bằng sự giải thích hànnh vi đó. Khi các quốc gia đưa ra lời tuyên bố hạn chế tự do hành động của mình, thì phải giải thích hạn hẹp…” Tòa án cũng nói là: “chỉ cần xét một vấn đề quan trọng là xem lời văn trong lời tuyên bố có biểu lộ một ý định rõ rệt không … Tòa án phải tự có quan điểm riêng về ý nghĩa và phạm vi mà tác giả lời tuyên bố đơn phương nào có thể tạo ra một nghĩa vụ pháp lý, và tòa không thể bị ảnh hưởng gì bởi quan điểm của một quốc gia khác vốn không thể là một bên đương sự trong lời tuyên bố đó.” (Of course, not all unilateral acts imply obligation; but a State may choose to take up a certain position in relation to a particular matter with the intention of being bound--the intention is to be ascertained by interpretation of the act. When States make statements by which their freedom of action is to be limited, a restrictive interpretation is called for......The Court further stated in the same case: “... the sole relevant is whether the language employed in any given declaration does reveal a clear intention...”(Ibid., p. 32). Court must however form its own view of the meaning and scope intended by the author of a unilateral declarationwhich may create a legal obligation, and cannot in this respect be bound by the view expressed by another State which is in no way a party to the text.).
Ý định của Thủ tướng Phạm Văn Đồng trong cái câu ông nói ở Công hàm 1958 (“Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ghi nhận và tán thành bản tuyên bố ngày 4-9-1958 của Chính phủ nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa quyết định về hải phận của Trung Quốc") có thể nói thêm Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã im lặng nhiều năm, không phản đối chuyện mất Hoàng Sa về tay họ năm 1956 (khu vục Amphitrite với đảo Woody/Phú Lâm, phía đông Hoàng Sa) và 1974 (khu vực Crescent có đảo Pattle/Hoàng Sa phía tây Hoàng Sa). Sau hết, Việt Nam có in bản đồ ghi Tây Sa, Nam Sa (Trung Quốc) và có in một giòng trong sách giáo khoa lớp 9 như sau: “ Chuỗi hải đảo Nam Sa, Tây Sa, Hải Nam, Đài Loan, Bành Hồ and Châu Sơn như một vòng cung bức trường thành nó bảo vệ lục địa Trung quốc”
NHƯNG Việt Nam có thể bác khước là ngay cả lời tuyên bố đơn phương/unilateral declaration của Thủ tướng Phạm Văn Đồng cũng không có giá trị về chuyển nhượng lãnh thổ, nữa là mấy bài báo Nhân dân thời đó hay lời nói thoáng qua của Bộ trưởng Ngoại giao Khiêm chỉ nhắc lại nguyên văn bản tuyên bố của Trung Quốc.
Còn việc Trung Quốc biện luận là Việt Nam Dân chủ Cộng hòa im lặng khi mất Hoàng Sa trong những năm trước 1975 thì có thể trả lời là lúc đó, việc phản đối thuộc thẩm quyền của chính phủ có quyền quản lý là quốc gia Việt Nam Cộng hòa và Việt Nam Cộng hòa đã mạnh mẽ phản đối, kể cả chống cự bằng võ lực.
Sau khi thống nhất,hay khi sắp sửa thống nhất, thì hải quân Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng đã vội chiếm trong tay quân đội Việt Nam Cộng hòa các đảo ớ Trường Sa vào năm 1975 và từ 1976 trở di, chính phủ của nước Việt Nam thống nhất liên tục lên tiến phản đối để bảo lưu chủ quyền Việt Nam.
Sau hết, việc in bản đồ ghi Tây Sa, Nam Sa (Trung Quốc) là Việt Nam chỉ nói để làm được lòng Trung Quốc, đồng minh của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đang viện trợ lúc đó, muốn yêu sách như vậy, cũng như Trung Quốc bây giờ in khung Đường Lưỡi Bò vào trong sổ hộ chiếu họ dùng, nhận vơ hầu như tất cả Biển Đông trong khung Đường Lưỡi Bò đó; cả hai việc đó không có giá trị của một lời hay một hiệp ước nhượng đất của các cơ quan hiến định Việt Nam có quyền nhượng đất, là chủ tịch nước và nghị viện hay quốc hội.
Cái câu trong sách giáo khoa thì cũng chỉ là một khẩu hiệu tuyên truyền ngoa ngữ để ủng hộ tinh thần cho Trung Quốc khi nước này đang lo sự đe dọa của Tổng thống Mỹ ít năm trước đó chỉ định các vùng đó là vùng chiến trận, và câu đó không có giá trị Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nhượng đất hiện dưới chủ quyền của VNCH.