Chủ Nhật, 15 tháng 1, 2023

"Chuyện mới tiết lộ" Cờ Việt Cộng trên đỉnh Nhà thờ Đức Bà Paris

Bernard Bachelard, Noé Graff và Olivier Parriaux


LTS : Cách đây 54 năm, một buổi sáng tháng giêng năm 1969, thủ đô nước Pháp đã sửng sốt phát hiện lá cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam phất phới trên đỉnh tháp nhà thờ Đức Bà (Notre-Dame de Paris). Ngọn cờ đã được giương lên trong đêm 18.1.1969 là ngày Hội nghị bốn bên về Việt Nam khai mạc tại Paris, chỉ vài giờ sau buổi họp toàn thể đầu tiên của Hội nghị. Điều đáng kinh ngạc hơn nữa là cho đến nay người ta vẫn không hề biết tác giả của kỳ công đó là ai.

Phải đợi đến thời điểm kỷ niệm 50 năm Hiệp định Paris về Việt Nam được ký kết thì tác phẩm Le Vietcong au sommet de Notre-Dame - Les escaladeurs de la cathédrale au tournant de la guerre du Vietnam parlent của ba tác giả người Thụy Sĩ Bernard Bachelard, Noé Graff và Olivier Parriaux, mới tiết lộ hoạt động mạo hiểm của họ 54 năm trước. Quyển sách sẽ được NXB Favre tại Lausanne phát hành vào ngày 19.1 2023.

Cũng trong những ngày kỷ niệm này, tại Thành phố Hồ Chí Minh, số báo xuân Quý Mão 2023 của tạp chí Người Đô Thị, được các tác giả cho phép, đã công bố một trích đoạn của quyển sách do Trần Hải Hạc chuyển ngữ, với nhan đề Lá cờ Mặt trận Giải phóng trên đỉnh cao nhà Đức Bà Paris (Chúng tôi sẽ giới thiệu đường dẫn trong mục Thấy trên mạng khi Người Đô Thị đưa bài lên mạng).

Dưới đây Diễn Đàn giới thiệu toàn văn của bản dịch trích đoạn ấy.


Tác giả của quyển sách này là ba nhà hoạt động Thụy Sĩ “thân Việt Cộng” mà danh tính cho đến nay chưa được phát hiện, kể cả trong hồ sơ sở mật thám liên bang Thụy Sĩ [1]. Họ đã giương cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam lên cây thánh giá ở đỉnh tháp của nhà thờ Đức Bà Paris trong đêm 18 tháng 1 năm 1969, ngày khai mạc của Hội nghị bốn bên về Việt Nam [2].

Bernard Bachelard lúc đó 26 tuổi là giáo viên thể dục, Noé Graff 24 tuổi là sinh viên khoa luật và Olivier Parriaux 25 tuổi là sinh viên vật lý. Sau những năm cùng hoạt động trong Liên minh Mácxít Cách mạng [Ligue Marxiste Révolutionnaire - thuộc Đệ tứ quốc tế (Nd.)] tại Thụy Sĩ, người thứ nhất trở thành điều phối viên chương trình thực nghiệm-thí điểm về chăm sóc sức khoẻ tại gia của bang Vaud, sau khi đã theo học khoa chính trị kinh tế. Người thứ nhì tiếp nối sự nghiệp trồng nho của gia đình, đồng thời dấn thân bảo vệ người lao động nông nghiệp ở Tây Ban Nha, đã cùng với đồng nghiệp sáng lập “mặt bằng vì một nền nông nghiệp mang tính xã hội bền vững” - từ năm 1986, nông trang của ông thường xuyên đón tiếp Ahmed Ben Bella [lãnh đạo Angêri - Nd.] tỵ nạn ở Thụy Sĩ. Người thứ ba trở thành giáo sư đại học, giảng dạy và nghiên cứu trong lãnh vực quang học điện từ, đã thiết lập quan hệ hợp tác chặt chẽ và lâu dài với những nhà vật lý Liên Xô.

Ngày hôm nay, ba tác giả kể lại ba mươi giờ gia nhập của họ vào cuộc chiến ba mươi năm của một dân tộc đã rứt ra khỏi nanh vuốt chủ nghĩa thực dân, kháng cự thắng lợi đại hồng thuỷ khói lửa và hoá chất chết người của Hoa Kỳ, và bước ra khỏi tình trạng kém phát triển.



Từ trái sang phải : Olaf (Olivier Parriaux), Bacchus (Bernard Bachelard), Noé (Noé Graff)


Cách đây nửa thế kỷ, chúng tôi sang Paris…


... trên chiếc xe con cóc Citroen 2 CV. Chúng tôi – Bacchus [Bernard Bachelard], Noé [Noé Graff] và Olaf [Olivier Parriaux], quê ở ba làng khác nhau của bang Vaud, Thụy Sĩ – đến Paris với một cuộn vải lụa, một dây thừng dài, một cưa sắt và một ít đồng Franc Pháp. Ngày thứ bảy 18 tháng 1 năm 1969 này, không sử dụng thiết bị leo núi, chỉ bằng tay không, chúng tôi sẽ leo lên chóp tháp Viollet-le-Duc của nhà thờ Đức Bà trong ban đêm, và treo lên thánh giá ở trên đỉnh cao 96 mét một lá cờ lớn của Mặt trận dân tộc giải phóng (MTDTGP) miền Nam Việt Nam, mà không hề biết chắc là có về trở lại được hay không. Lối vào, đưòng đến chóp tháp, cách leo lên đinh và cách tẩu thoát được chuẩn bị trên cơ sở của một tập bản vẽ lớn của kiến trúc nhà thờ Đức Bà Paris [3] có tại thư viện Palais de Rumine của Lausanne.

Chúng tôi muốn ghi khắc chuyến dã ngoại này vào một thời điểm bản lề lịch sử thế giới. Quả thật vậy. Lá cờ « Việt cộng » đã phất phới suốt ngày chủ nhật, một ngày trục của cuộc chiến tranh Việt Nam : thứ bảy là ngày hội đàm Paris nhóm họp phiên đầu tiên với bốn bên, tức cuối cùng đó là sự công nhận của thế giới đối với MTDTGP như là đại diện của một dân tộc đang chiến đấu để giải phóng mình. Thứ hai là ngày biểu tình lớn của phong trào phản chiến Mỹ tại Washington chung quanh Điện Capitole, nơi Nixon nhậm chức tổng thống - đắc cử với lời hứa hòa bình, hắn sẽ kéo dài chiến tranh cho đến khi bị truất phế, tức thêm năm năm nữa và một triệu tử vong.

Cho đến nay, chúng tôi không hề muốn lên tiếng nhận lấy trách nhiệm về hành động này, hoặc kể lại câu chuyện. Chỉ khi chóp tháp nhà thờ Đức Bà Paris cháy và sụp đổ vào tháng 4 năm 2019, chúng tôi mới ý thức sự cần thiết quay trở lại một nửa thế kỷ, kể lại câu chuyện, trình bày những động cơ của chúng tôi lúc ấy, cũng như tự hỏi xem xã hội Việt Nam ngày nay còn có gì để nói với thế giới hay không.

Ảnh (D.R.)

Vương miện hoa hồng của nhà thờ Đức Bà


Lausanne, sáu giờ sáng thứ bảy 18 tháng giêng 1969. Trời còn tối. Từ một tuần nay, chúng tôi biết được đàm phán ở Paris cuối cùng sẽ khai mạc tuần ngày 19 tháng giêng, sau nhiều lần cò cưa của Nixon từ khi thắng cử tổng thống Hoa Kỳ ngày 5 tháng 11 1968. Một sự giao hợp lý tưởng của hai sự kiện lớn : phiên họp bốn bên đầu tiên thứ bảy 18 tại Trung tâm hội nghị quốc tế Paris, và thứ hai là ngày Nixon nhậm chức tại Điện Capitole ở Washington với cuộc biểu tình phản đối của phong trào phản chiến đã từng tổ chức năm 1967 cuộc bãi khoá của một triệu sinh viên học sinh vào tháng tư, và cuộc tuần hành 100 000 người phản kháng trước Pentagone vào tháng mười.

Chúng tôi chất thiết bị – hầu như không có gì – vô xe con cóc và lên đường. Noé, hiền lành, cầm tay lái, đi về hướng núi Jura. Mặt trời mọc khi đến làng Les Fourgs, chúng tôi băng qua những làng nằm dọc theo lộ đường của vùng Bourgogne-Franche Comté, với những căn nhà mà mặt tiền vẽ bằng màu xưa cũ một gã múa may và hát, tay cầm ly rượu và chúc bạn thượng lộ, « Vin Fou, Route Joyeuse » [Vin Fou, đường vui][4] ! Vậy mà trong xe, không hề thấy « Có niềm vui !» [Y’a d’la joie !][5] nào giữa ba đứa chúng tôi. Lặng thinh, lo âu. Cái gì sẽ xảy đến ? Bao nhiêu điều có thể hỏng, cho dù tôi đã chuẩn bị tỉ mỉ, căn cứ trên tập bản vẽ lớn của thư viện de Rumine. Và còn… độ cao nữa !

Con cóc 2 CV ngừng ở một khu vực nghỉ trên Quốc lộ số 6 gần Paris để chúng tôi trang bị. Bacchus đeo cuộn vải lụa vào vai. Tôi [Olaf] quấn dây thừng dài quanh người và đặt cưa sắt vào giữa hai xương bả vai, rồi tròng lên phía trên một áo khoác bó sát người. Tới Paris vào khoảng 13 giờ, chúng tôi lấy hướng đảo Ile de la Cité. Thật may : Noé có thể đỗ xe phố Quai de l’Archevêché, sát vườn hoa cùng tên (nay trở thành Square Jean XXIII), ngay khu vực đầu nhà thờ lớn, ở trên trục kéo dài của nó. Vào khoảng 14 giờ, chúng tôi tách ra và thoả thuận với Noé rằng bạn sẽ đợi hai đứa chúng tôi ở trong xe bắt đầu từ 23 giờ và sẽ nhấp nháy đèn pha – từ đây đến đó, Noé sẽ tham quan thành phố vì là lần đầu trong đời bạn đến Paris.

Bacchus và tôi cùng vào một quán cóc ở phố Cloître-Notre-Dame để dùng cà phê trước khi bắt tay vào việc. Hai đứa ngồi vào bàn.

Bacchus trêu chọc : Kỳ này là đến lượt bồ làm phải không ?

Tôi ngước mắt nhìn lên chóp tháp… : Rất tiếc bồ ơi, nhưng chúng ta một lần nữa sẽ phải dựa vào thần kinh thép của bồ…

Phải nói rằng chúng tôi đã từng có thực tập ban đêm, trước lần biểu tình lớn ngày 22.6.1968 của toàn Thụy Sĩ ủng hộ Việt Nam chống chiến tranh của Mỹ, mà cao điểm là giương cờ MTDTGP trên đỉnh các tháp nhà thờ lớn Lausanne và Berne. 

Không hề trung lập trong cuộc chiến này, Thụy Sĩ gắn chặt với Hoa Kỳ về ngoại giao, cũng như về công nghiệp khi cung ứng máy bay Pilatus và – điều này mãi về sau mới được phát hiện – khi cung cấp bánh xe có răng cưa và khớp răng cho ngòi nổ trong bom của Mỹ. [6]


Ngày 22.6.1968, nhiều người đi chợ ngày thứ bảy ngạc nhiên thấy một lá cờ lớn, rõ ràng không phải cờ Thuỵ Sĩ, tung bay cao trong gió trên đỉnh tháp chuông của thánh đường Münster. Lá cờ đỏ và xanh điểm một ngôi sao vàng sáng chói. Vài người trẻ đã ban đêm leo lên tận đỉnh tháp, treo lá cờ của Mặt trận dân tộc giải phóng miền Nam. « Kỳ tích leo núi » này, như cảnh sát gọi, đã mở đầu cho Ngày Thuỵ Sĩ cho Việt Nam, qui tụ tại Berne vài trăm người, đa số là giới trẻ, biểu tình chống chiến tranh Việt Nam. Nhật báo Berner Tagblatt hôm thứ hai chạy tít lớn : « Biểu tình nhân Ngày Việt Nam : cách mạng cũng đã bắt đầu ở Berne ? »

Bern Stadtmagazin
Ảnh (D.R.)




Tân khách của nhà thờ Đức Bà


Thứ bảy 18 tháng 11969. 15g30, chúng tôi bước lên tháp chuông Nam, lẫn trong dòng khách du lịch trước khi hết giờ tham quan, đến lối đi đầu tiên của tháp ở độ cao 45 m và là tầng cao của ô sáng kết nối hai tháp chuông. Chúng tôi kiểm tra hiện trường : ngõ ra Đông-Nam của lối đi có song sắt cao ngăn chặn công chúng đi qua. Canh thời điểm không có ai nhìn thấy, chúng tôi lượn quanh song sắt – bên khoảng trống không – bằng cách bám vào nó, rồi ẩn núp ngay bên mặt Đông-Nam của tháp chuông.

Ngồi chồm hổm ở phía sau một dãy lam chớp âm thanh để tránh gió, chúng tôi đợi hoàng hôn xuống trong khi thảo bản thông cáo báo chí sẽ trao cho báo Le Monde. Thời tiết không dưới 4 độ, nhờ những tảng đá giữ hơi ấm của một ngày nắng đẹp mùa đông.


Lượn qua song sắt – Ẩn núp ở mặt Đông-Nam tháp chuông – Tụt xuống các xà gỗ của tháp chuông Nam – Tiến dọc theo phào chỉ đi đến tháp chuông Bắc.
Ảnh (DXR, Daniel Vorndran).

Màn đêm buông xuống vào khoảng 18 giờ. Đã đến lúc chúng tôi đi xuống tầng của phào chỉ, tức của dải vật liệu trang trí các mặt phẳng. Khoảng trống giữa các cánh gập của lam chớp cho phép một cơ thể luồn vào bên trong tháp chuông. Ôm lấy những xà gỗ sồi khổng lồ của khung sườn đỡ mười ba tấn và bốn thế kỷ của cái chuông lớn Emmanuel và cái chuông mới Marie, chúng tôi tụt xuống mười mét phía dưới, người phủ bởi lớp bụi hàng thế kỷ. Rồi qua tầng thấp của ô sáng, chúng tôi tiến về phía điểm nối của tháp chuông Bắc với bức tường máng xối chạy dọc phía dưới mái của gian giữa nhà thờ.

Kinh ngạc : thay vì có một lối đi liên tục từ tháp chuông sang tường máng xối, chúng tôi phát hiện một khoảng cách 2 mét phải vượt qua mà phía dưới là ba mươi lăm mét trống không – điều mà tập bản đồ của thư viện không hề chỉ ra. Trời đã tối. Lưng chạm vô tường của tháp chuông – không có độ lùi lấy trớn –, Bacchus phóng qua không khó khăn. Tìm sức trong nội lực, tôi nhảy qua chỉ súyt soát và phải được kèm giữ lại.

Sau đó là đường đi trên bức tường dọc theo gian giữa của nhà thờ đến giao điểm với gian ngang, chúng tôi khom lưng tiến tới, một phần được khuất tầm nhìn từ phố Cloître-Notre-Dame nhờ các trụ tường chống trên cao.

Một khó khăn bất ngờ khác sinh ra ở đây. Tại giao lộ gian giữa-gian ngang, phương chính Tây Bắc, là một dãy tượng bằng đồng rập nổi, thờ nhà truyền giáo Thánh Marco [Marc], bắt đầu với biểu tượng con sư tử có cánh. Các tượng này được lắp đặt trên bệ theo những bậc thang có độ dốc cao hơn hai mét mà không có chỗ lồi để bám vào – chiều cao của các bức tượng hơn ba mét đã rõ ràng bị đánh giá thấp. Chúng tôi phải mất một giờ trèo lên, tuột xuống để trượt từ con sư tử đến Simon rồi đến Batôlômêô [Barthélémy], và leo lên bệ của Giacomê Lớn [Jacques le Majeur], để tiến tới thân của chóp tháp. Từ đó, chúng tôi leo lên hông chóp tháp bằng cách bám vào các quái vật chimera và các chỗ lồi, và cuối cùng đạt đến hành lang mở thứ nhất vào khoảng 9 giờ tối. Lối lên hành lang thứ hai dễ dàng hơn vì đi từ bên trong.


bia
Vị trí chờ đợi trong bóng mờ (O) – Tụt xuống các xà gỗ – Nhảy qua khoảng trống không (X) –
Tiến tới giao lộ của gian giữa và gian ngang.  Ảnh AFP.

bia
Trèo lên dãy tượng Tây-Bắc – Tiến lên hành lang thứ nhất.  Ảnh Alami.


Mặc dù những điều bất ngờ trên, chúng tôi có mặt vào đúng thời điểm dự định tại chân của công trình 96 mét, 500 tấn gỗ sồi, 250 tấn chì và 160 năm tuổi. Chúng tôi kiểm tra hiện trường. Choàng cuốn vải lụa qua vai, Bacchus buộc đầu dây an toàn leo núi vào thắt lưng của mình. Lá cờ bằng lụa kích thước 3 x 5 mét, có viền được gia cố để chứa một sợi dây ở hai đầu buộc móc lò xo. Thay vì bị cuốn lại, lá cờ được xếp theo dạng đàn phong cầm để có thể bung ra mà không bị xoắn : cuốn vải lụa được giữ bằng mười dây thun nối nhau bởi một dây thừng sợi nhỏ và dài mười hai mét.


Đường lên thánh giá


Cuộc leo lên chóp tháp bằng tay không, bắt đầu vào khoảng 10 giờ tối, bên sườn Bắc là bên có những thanh sắt nẹo vào tường và cách nhau khoảng sáu mươi cm. Vươn cao lên trời, chóp tháp có mặt cắt hình bát giác. Dọc theo tám cạnh có các « móc » trang trí gothic – là những hoa văn đắp nổi, mô tả những chồi cây, nhóm theo hình vương miện và cách xa nhau khoảng hai mét. Các móc này, đặt trên hai cạnh khung tường phải leo lên, thật hữu ích để vịn vào khi phải ngừng nghỉ. Chúng tôi đi lên thật chậm để kiểm tra ở mỗi mức độ rằng thanh sắt tiếp theo vẫn neo chắc chắn vào tường, sau một thế kỷ thời tiết mưa gió và chu kỳ nhiệt (lần kiểm tra chóp tháp năm 1935-37 cho thấy 160 biến đổi trong công trình : nét nứt gãy, vết xé rách, tấm chì bị vênh, mối hàn rạn nứt).

Càng leo lên cao, mảnh tường chúng tôi đối diện càng thu hẹp cho đến khi tay chúng tôi có thể ôm lấy cột của thánh giá và nắm bắt tay phía sau. Gió tạo nên những dao động mà bụng của chúng tôi cảm nhận, mắt của chúng tôi cũng nhìn thấy như vũ điệu của tả ngạn sông Seine phía xa. Nhìn xuống chóng mặt : từ độ cao của chúng tôi, các mái của nhà thờ nhìn như bằng phẳng, thế nhìn của chúng tôi vượt trội các tháp chuông sáu mươi chín mét. Chúng tôi tạm dừng ở hoa văn trang trí sau cùng, nơi đây dây leo an toàn được cột nhiều vòng vào một chiếc móc, để dây có thể dài ra khi Bacchus tiếp tục leo về phía thánh giá. Tôi đột nhiên nhận ra là kỹ thuật leo an toàn ở đây vô lý cũng như vô ích : nếu Bacchus ngã thì anh sẽ ngã vào bức tường bên dưới mà không có mũ bảo hiểm, với giả định rằng chiếc móc chịu đựng được cú sốc. Kỹ thuật leo an toàn thật ra quy vào ý thức của Bacchus về sự chính xác trong mỗi động tác và sự can trường của anh, kèm với – điều mà người ta có thể tin – là lòng khoan dung phù độ của thần thánh

Tôi dừng lại ở mức độ của vương miện các móc cuối cùng, ở ba mét dưới vương miện hoa hồng và hoa loa kèn có đường kính một mét. Tôi sẽ ở đây trong khi Bacchus thực hiện giai đoạn leo cuối cùng và rủi ro nhất vào lúc 10 giờ 45 : tiến lên cây thánh giá. Khi tiến công vương miện hoa hồng, Bacchus dường như cảm nhận dây thừng quá lỏng lẻo, hô lên giọng lo âu :

Bồ giữ tôi chặt chứ ?!

Rồi (có phải nói lên điều mà tôi vừa nhận ra chăng ?).

Vượt qua phần cao khó khăn của vương miện hoa hồng, Bacchus leo lên cột kim loại đến chân cây thánh giá cao sáu mét và nắm lấy hoa văn ở chân cây thánh giá là một bó bốn hoa hồng lớn. Leo lên thanh đứng của thánh giá theo kiểu leo cột, Bacchus bám vào đồ trang trí ở điểm chéo nhau của thánh giá, và gắn móc lò xo của phía trên lá cờ. Giờ thứ mười một.

(hình bên:Croix de 6 m = Thánh giá 6 mét ;  Bouquet de roses = Bó bốn hoa hồng ; Mât = Cột ; Couronne de roses = Vương miện hoa hồng và hoa loa kèn ; Thanh sắt = Barres de fer ; Couronnes de crochets = Vương miện các móc )






Bacchus : Ký ức dài lâu về cảm giác thể xác… Không thể bước qua vương miện hoa hồng mà không đu người ngang trong khoảng không để móc gót chân trái vào viền của vương miện, hai tay bám vào các hoa hồng, hoa loa kèn bằng sắt rèn. Lòng bàn tay của tôi hôm nay vẫn giữ cảm giác của áp lực lúc tôi đu người để trèo lên, đặc biệt là bàn tay phải rồi khuỷu tay trái. Tôi không chóng mặt. Sự hào hứng đạt đến mục tiêu gần kề đã xoá mờ những khó khăn khi trèo cột và thanh đứng của thánh giá.


Tôi trông thấy đèn pha của Noé đang nhấp nháy. Bacchus tuột dần xuống và gắn móc lò xo thứ hai vào chân cây thánh giá. Sau đó, nằm trên vương miện hoa hồng, Bacchus bám vào viền hoa, thả mình xuống, đặt một chân sau thân cột chóp tháp để tiến đến gần hơn rồi ôm lấy cột khi thả viền hoa, và anh gặp lại tôi ở bên dưới vương miện hoa hồng. Giai đoạn cuối cùng này không kéo dài quá nửa giờ. Đến đó, hai đứa chúng tôi cùng kéo dây thừng nhỏ. Đánh trống ngực. Lá cờ lớn lập tức bung ra với một tiếng phựt mà ngay Noé ở dưới xe cũng nghe thấy. 

Mười hai giờ đêm.

Chúng tôi xuống chậm chậm một phần ba chiều cao chóp tháp và, để ngăn chặn người khác sắp tới sẽ tìm cách leo lên, chúng tôi cưa các thanh sắt sát vô tường và trên nhiều mét. Cưa cắn sắt như gỗ sồi (thép không gỉ chỉ được phát minh năm 1913). Chúng tôi trở lại hành lang mở đầu tiên vào 12 giờ rưỡi đêm, và từ đó đi xuống bằng cách trượt dọc theo dãy tượng đồng phía Đông-Nam, bắt đầu với tượng của bản thân Viollet-le-Duc trong tư thế Thánh Tôma [Thomas] chiêm ngưỡng tác phẩm của mình, sau đó là Giacômê Nhỏ [Jacques le Mineur], Thánh Phaolô [Paul] và cuối cùng là Thánh Gioan [Jean] trong hình dáng của con đại bàng thuộc tứ giác của Ngày tận thế.

Chúng tôi nhanh chóng đi đến tường máng xối và chuẩn bị việc đi xuống bằng dây theo ba chặng : từ lối đi trên tường đến mái của khán đài; từ mái này đến mái của lối đi bên ngoài; và từ đấy xuống mặt đất. Một nút thắt dây thành vòng được thắt vào giữa cuốn dây thừng. Mỗi nửa phần dây thừng được đặt mỗi bên giá đỡ của một miệng ống máng thoát nước, một phân nửa này đi qua vòng của một phân nửa kia, bao quanh cái giá đỡ. Việc leo xuống bằng dây được tiến hành trên phân nửa dây thừng không có thắt thành vòng. Nên khi tiếp nhận người leo xuống thứ hai, một lực kéo trên phân nửa dây có thắt thành vòng cho phép thu hồi dây thừng cho lần leo xuống bằng dây tiếp theo.


Đi xuống theo ba chặng, từ bức tường máng xối cho đến vườn hoa Square de Archevêché
Ảnh Zairon

Khoảnh khắc lo âu trong lần leo xuống bằng dây cuối cùng : nó xảy ra trước buồng áo tân-gothic của Viollet-le-Duc, ở đó có một tu sĩ đang gác đêm trong một căn phòng có ánh sáng và mở cửa sổ. Chúng tôi xuống tới đất lúc 1g30, bỏ lại dây thừng tại chỗ – khiến có nhà báo về sau viết rằng các tác giả vụ treo cờ nhà thờ Đức Bà đã leo lên bằng dây thừng –, và rút lui kín đáo qua vườn hoa, đến nơi hẹn gặp Noé. Nhìn lại phía sau lưng một lần cuối, chúng tôi nhận ra lá cờ to đẹp trong ánh sáng khuyếch tán của thành phố. Nó phất phới theo gió, giương rộng ra.

Hai giờ sáng, xe chúng tôi đi đến tòa soạn của báo Le Monde, số 5 rue des Italiens. Nổi lo sợ sau cùng : trên đường đi, chúng tôi rơi vô một ngã tư lớn khá hỗn độn – tiếng huýt còi, chất hoả mù, đèn pha quay, lực lượng công an hiện diện dày đặc và kiểm tra xe (chúng ta không xa tháng 5 năm 1968 và tổng thống De Gaulle còn đương quyền). Một viên công an ra dấu cho xe dừng lại và tiến đến gần – rồi đời chúng tôi, mặt mũi lúc đó còn bôi đen ôxít chì. Nhưng chúng tôi lại sững sờ vì nụ cười của ông khi nhìn thấy bảng xe ở nước ngoài của chúng tôi, và liền ra dấu với cây dùi cui cho xe đi nhanh. Lần cuối cùng toát mồ hôi hột là trước cửa báo Le Monde : may là tòa soạn có một hộp thư ở bên ngoài, cho nên tôi đã đút ngay bản thông cáo báo chí vào đấy. Lúc ấy là đã hai giờ rưỡi. Chỉ một giờ sau đó, một nhân viên Sở công an trên đảo Ile de la Cité sẽ phát hiện ra lá cờ tung bay trên đỉnh của chóp tháp.

Khi đó, đã ra khỏi Paris, chúng tôi ở trên đường đi Lausanne, và sẽ về đến nơi mà không có trắc trở vào cuối buổi sáng chủ nhật – vô cùng nóng lòng muốn biết số phận của lá cờ và tiếng vang có thể của nó trên bầu trời Paris.

Bacchus : Hội chứng trầm cảm (blues) trên đường về. Tôi nghĩ tới Francoise mà tôi sắp gặp lại với bé Olivier vừa mừng sinh nhật 4 tuổi. Chinh cô đã may lá cờ và đã gấp xếp thông minh thế nào cho nó bung ra. Cô chấp nhận cho tôi đối đầu với nguy cơ, và tin tưởng tôi. Mà nguy cơ là có thật.

Vừa về tới nơi, chúng tôi chạy đến rạp Cinéac khi đó chiếu thường trực thông tin thời sự. Chúng tôi thở phảo và phấn kích : lá cờ vẫn còn đó, phất phới tuyệt vời ở đỉnh chóp tháp.

Chúng tôi cũng được thông tin là « ngọn đuốc số 1 » Jan Palach, đã tắt thở sau khi tự thiêu hôm thứ năm để phản đối cuộc đàn áp « mùa xuân Praha ».


Mọi cặp mắt đều nhìn về nhà thờ Đức Bà


Trả lời phỏng vấn của một nhà báo Mỹ ngay sáng hôm chủ nhật đó, một sĩ quan công an Pháp tuyên bố : « Dù là ai thì cũng không dễ gì mà làm. Có thể nhận thấy rõ lá cờ từ Sở công an cách 250 mét. Lính cứu hoả đã thử gỡ nó xuống nhưng không thành. Tôi phải thừa nhận rằng sáng hôm nay chúng tôi hơi bị quê. Người làm điều ấy phải là người gan góc ». Lần đầu tiên trong lịch sử của họ, đội Cứu hoả Paris đã phải thao tác bằng trực thăng. Các nhà báo, nhiếp ảnh, quay phim mặc sức ngắm cảnh đó dưới mọi góc độ. Cuối cùng, đến khoảng 15 giờ, lính cứu hoả và đồng thời là diễn viên đóng thế (nay đã quá cố), Raymond Belle (bố là lính Pháp và mẹ Việt Nam) đã treo mình vào dây cáp trực thăng để tiến đến gần cây thánh giá – « trong những điều kiện khó cực kỳ » và sau nhiều lần thất bại – mới cắt đứt các dây cột lá cờ đỏ và xanh với ngôi sao vàng năm cánh.

Ông được binh chủng chính thức vinh danh, cũng như sự quý trọng của chúng tôi, vì sự can đảm và nghiệp vụ tổ chức thao tác trực thăng.


Tiểu đội trực thăng vận của Cứu hoả Paris và chiến lợi phẩm (Ảnh: Bảo tàng Cứu hoả Paris)
  Raymond Belle được vận chuyển bằng trực thăng
 (Ảnh: Pressimages)

Sự hiện diện lâu dài của lá cờ MTGTGP ngày mở đầu đàm phán, cũng như thao tác nhào lộn để thao gỡ nó, đã thu hút quan tâm của các phương tiện truyền thông quốc tế với những bài báo, phim và ảnh ngoạn mục, trong đó có trang đầu The New York Times ngày 20 tháng giêng.

Thao tác của chúng tôi, dù mang tính thiểu số, không thuộc loại hành động mang tính cám dỗ - và đã từng một thời cám dỗ một số người (Rote Armee Fraktion, Brigade Rosse [Đội quân đỏ ở Tây Đức và Ý]) ; đó không phải là hành động mà tính chất triệt để chỉ biểu hiện sự nôn nóng hay bất lực, thay thế sự thiếu vắng một phong trào xã hội. Trái lại, thao tác ấy phải được đặt vào quá trình phát triển của phong trào ủng hộ MTDTGP ở châu Âu, đã được đẩy tới bởi mùa thu nóng năm 1967 tại Đức và tháng năm 68 với mười triệu lao động đình công tại Pháp, và với sự chuyển hoá ở Hoa Kỳ của phong trào chống chiến tranh thành phong trào công khai ủng hộ MTDTGP. Ngày hôm đó, trong một không khí tất tưởi và lo lắng, Washington chuẩn bị cuộc biểu tình lớn hôm sau ngày Richard Nixon tuyên thệ nhậm chức tại Capitole, trong bụng đã quyết dội bom ồ ạt trở lại và tiếp tục tiến hành chiến tranh hoá học tàn phá rừng rú và ruộng đồng Việt Nam.

Hành vi của chúng tôi hiển nhiên không thay đổi tương quan lực lượng trong chiến tranh, nhưng tầm cỡ và sự thành công của nó nhấn mạnh vị thế lệ thuộc, cô lập của chính quyền Sài Gòn, và tính chính đáng, ưu việt của MTDTGP. Mặt khác, nó cũng hỗ trợ phong trào phản chiến Mỹ trong cuộc vận động quốc tế của nó, như Bill Zimmerman xác nhận [7] : « Vào sáng ngày 20 tháng 1 năm 1969, một số đông trong phong trào phản chiến tập hợp về Washington phản đối Richard Nixon nhậm chức tổng thống, tinh thần của chúng tôi được kích lên lại bởi một bức ảnh trên trang nhất báo NewYork Times. Một lá cờ của MTDTGP trên đỉnh nhà thờ Đức Bà ở Paris, nơi diễn ra những cuộc hội đàm chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam. Tại Hoa Kỳ, chúng tôi hoạt động đã bốn năm nhằm kết thúc cuộc chiến ấy, và nhìn thấy với bằng chứng hiển nhiên rằng những người khác trên thế giới cũng đang làm như vậy, khiến chúng tôi càng quyết tâm tiếp tục cuộc đấu tranh của mình cho đến khi nào còn cần thiết ».


Hoàn thành sứ mạng


Như vậy, chúng tôi đã dự đoán đúng từng chữ lời biết ơn tháng 1 năm 1973 của bà Nguyễn Thị Bình, người đứng đầu phái đoàn Chính phủ Cách mạng Lâm thời tại hội đàm Paris : “Một lần nữa, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới các bạn bè của Việt Nam trên thế giới, trong đó có các bạn Hoa Kỳ, đã giương cao biểu ngữ của MTDTGP và CPCMLT, đã đấu tranh chống lại chiến tranh xâm lược do Hoa Kỳ tiến hành và ủng hộ nguyện vọng chính đáng của người dân miền Nam Việt Nam.”

Bà Nguyễn Thị Bình (Ảnh D.R)

Báo Le Monde thứ ba 21 tháng 1 đăng lại kết luận thông cáo báo chí của chúng tôi : “… Hành vi nói trên biểu tượng sự ủng hộ của nhân dân Pháp đối với một cuộc đấu tranh giải phóng mà họ liên đới, bản thân họ đã đặt cơ sở cho cuộc đấu tranh cách mạng ở Pháp vào tháng năm [1968]. Thay vì cho đó là một hành động phạm thần linh, nên xem nó là việc ủng hộ tình cờ của Giáo hội Công giáo đối với cách mạng, trong khi ở Sài Gòn vai trò Giáo hội là làm chỗ tựa cho một chính quyền phản động”. Đưa thông tin rộng rãi, các media hầu như không phản bác hành động của chúng tôi : sự chênh lệch về những phương tiện huy động để treo và để hạ lá cờ và, mặt khác tính thẩm mỹ cân xứng của hành động, như khơi dậy sự tôn trọng nói chung.

Điều này phản ánh độ càm tình cao trong công luận đối với MTDTGP. Chính quyền Sài Gòn có cáo buộc Mặt trận Giải phóng “làm uế tạp” công trình tôn giáo. Văn phòng tòa Tổng giám mục đã cải chính rằng chỉ bên trong của nhà thờ lớn mới là sở hữu của Giáo hội, còn bản thân công trình là thuộc nhà nước Pháp. MTDTGP tuyên bố không có liên quan đến sự kiện đó. Theo chứng từ tháng 1 năm 2021 của một thành viên còn sống sót trong nhóm đàm phán của CPCMLT và VNDCCH : “Tất cả chúng tôi đều vui mừng thấy lá cờ MTDTGP bay trên nhà thờ Đức Bà, nhưng đều tránh biểu lộ công khai nó để không làm phật lòng chính phủ nước chủ nhà” [8].


Trích đoạn từ Bernard Bachelard, Noé Graff và Olivier Parriaux, Le Vietcong au sommet de Notre-Dame Les escaladeurs de la cathédrale au tournant de la guerre du Vietnam parlent [Việt Cộng trên đỉnh cao nhà thờ Đức Bà - Tiết lộ của các nhà đấu tranh đã leo lên đinh nhà thờ vào điểm ngoặt cuộc chiến tranh Việt Nam], nxb Favre, Lausanne 2023. Bản dịch Trần Hải Hạc.


Chú thích

1] F. Thétaz, B. Voutat, L’État « fouineur » saisi par le droit. Dénonciation et normalisation du renseignement politique intérieur en Suisse [Nhà nước ‘thóc mách’, bị pháp luật nắm bắt. Lời tố giác và sự chuẩn hoá của tình báo nội chính ở Thụy Sĩ], tạp chí Cultures & Conflits, số 114-115, trg. 139-170, 2019.

[2] Ngày 18.1 1969, bốn bên họp trù bị để thoả thuận về phiên họp toàn thể Hội nghị Paris lần thứ nhất, ngày 25.1 [Nd.].

[3] Marcel Aubert, Notre-Dame de Paris, Architecture et Sculptures, nxb Albert Morancé, Paris, 1928.

[4] « Vin fou », nghĩa đen là "Rượu vang điên", là một nhãn hiệu rượu của miền Jura, trở nên nổi tiếng trong những năm 1950 nhờ những chiến dịch tiếp thị. [Nd.]

[5] « Y’a d’la joie ! » (Có niềm vui !) là tên một bài hát nổi tiếng của ca sĩ Charles Trenet (1936). [Nd.]

[6] David Gaffino, Autorités et entreprises suisses face à la Guerre du Viêt Nam, 1960-1975, nxb Alphil, 2006.

[7] Nhà hoạt động chính trị lâu năm, đã hành động cho dân quyền ở các nước phía Nam, phản kháng chiến tranh ở Việt Nam, giúp hướng dẫn phong trào phản chiến giữa 1971 đến 1973. Sau đó, ông hoạt động chống lại sự can thiệp quân sự của Hoa Kỳ ở châu Mỹ La Tinh và hướng dẫn những chiến dịch bầu cử cấp tiến ở Hoa Kỳ. Ông là tác giả

của Airlift to wounded knee (1975) và Troublemaker (2011).

[8] Chứng từ do Nguyễn Ngọc Giao ghi lại, thư tín riêng, tháng 1 năm 2021.