Chủ Nhật, 11 tháng 12, 2022

XUẤT BẢN TRẠI SÚC VẬT (Trích hồi kí Lách qua luật ngầm)

 

Tạ Duy Anh


Lời tác giả

Trong đời làm biên tập tổng cộng chẵn 20 năm của mình, trái với vài người “khôn ngoan” cho rằng chẳng dại gì mà phải chết cho một cuốn sách, tôi luôn làm ngược lại: đặt việc xuất bản cuốn sách nào đó quan trọng hơn công việc của mình, nếu nó xứng đáng phải được xuất bản.

Nhưng phải nói ngay một sự thật: Tôi sẽ không thể làm được những gì như đã làm, nếu không có những đồng nghiệp tài năng, bản lĩnh, uy tín và lương tâm nghề nghiệp rất lớn, chấp nhận đứng mũi chịu sào.

Bắt đầu là giám đốc Nguyễn Phan Hách, tuy công khai nói mình nhát, nhưng luôn lắng nghe và bảo vệ cấp dưới. Nhà văn Nguyễn Khắc Trường là một tài năng và bản lĩnh lớn. Sau này, thời nhà văn Trung Trung Đỉnh làm giám đốc, tôi có cơ hội TOÀN QUYỀN làm theo ý mình. Sang thời nhà thơ Nguyễn Quang Thiều, về cơ bản ông ủng hộ mọi đề xuất của tôi, cùng hợp sức để vượt qua những giới hạn cấm kị và giống như Trung Trung Đỉnh, sẵn sàng nhận và chịu mọi trách nhiệm.

Nhờ những lãnh đạo như vậy, dù chỉ là một biên tập viên (về sau, do sự nài nỉ của Trung Trung Đỉnh suốt hơn một năm, tôi chấp nhận làm trưởng ban biên tập nhưng việc chính thì không thay đổi), tôi đã giúp cho ra đời và “xóa án” (tái bản những cuốn sách bị coi là có vấn đề) một số tác phẩm văn học quan trọng.

Tôi giúp tái bản Cơ hội của chúa (Nguyễn Việt Hà), Những mảnh đời đen trắng (Nguyễn Quang Lập), Những đứa trẻ chết già (Nguyễn Bình Phương), Chiều chiều (Tô Hoài), Miền hoang tưởng (Hoang tưởng trắng-Nguyễn Xuân Khánh), Lão Khổ, Đi tìm nhân vật (Tạ Duy Anh)…Khi một cuốn sách nào đó bị coi là có vấn đề mà được tái bản (thường không dễ) thì kể như án đình chỉ áp cho nó trước đó coi như bị xóa. Tại thời điểm những cuốn sách vừa kể được tái bản, không ở đâu ngoài Nhà xuất bản HNV dám làm.

Tôi đã nỗ lực để xuất bản bộ sách gần 10 ngàn trang (11cuốn) của nhà nghiên cứu văn hóa Nguyễn Trần Bạt, cùng các tác phẩm văn học: Thời của thánh thần (Hoàng Minh Tường); Những ngã tư và những cột đèn, Đêm núm sen (Trần Dần); Xem đêm (Phùng Cung); Hồi kí Phạm Cao Củng; Lê Vân yêu và sống (Bùi Mai Hạnh); Để gió cuốn đi (Ái Vân), Cung đàn số phận (Kim Dung-Kỳ Duyên); Trư cuồng (Nguyễn Xuân Khánh); Lưng rồng (Đỗ Hoàng Diệu); Phép tính của một nho sĩ (Trần Vũ); Tuổi hai mươi yêu dấu (Nguyễn Huy Thiệp); Tuyển tập Hoàng Ngọc Hiến; Tuyển tập Phạm Vĩnh Cư; Tập sách vinh danh Nguyễn Đăng Mạnh giữa lúc tên ông bị đánh dấu đen sau khi cuốn hồi kí phát tán; Phê bình thế kỉ 20 (Thụy Khuê); Từng đoạn đường văn (Lại Nguyên Ân); Bát phố và các tập thơ của Bảo Sinh; Thang máy Sài Gòn, Chỉ còn bốn ngày là đến 30 tháng tư (Thuận); Tập phê bình của Phạm Xuân Nguyên (khi ông có tên trong Ban vận động Văn đoàn độc lập); Đọc tôi bên bến lạ (Cầm Thi); Bút kí và các tập thơ của Du Tử Lê; Trần Lệ Xuân, quyền lực bà rồng (Monique Brinson Demery); Lolita (Nabocop); Chỉ tại con chích chòe (Dương Tường); Người sông mê (Phạm Toàn); Đất trời vần vũ ( Nguyễn Một); Phố hoài (Trần Thị Trường); Người Trung Quốc xấu xí (dưới cái tên Khoe bàn chân nhỏ-Bá Dương); Tư bản thân hữu ở Trung Quốc (Minxi Pei); Hoa đường tùy bút (Phạm Quỳnh); Một trời gió bụi (Thiên Sơn); các tập thơ thế sự của Phạm Xuân Trường; Con đường Hồi giáo (Phương Mai); Bức xúc không làm ta vô can, Thiện, ác và smartphone (Đặng Hoàng Giang); Đêm ngồi ngã ba sông (Nguyễn Thành Phong)…(Tôi không thể nhớ và kể ra hết). Chúng là những tác phẩm hầu như không thể xuất bản kể cả khi chấp nhận không còn nguyên vẹn ở đâu khác ngoài NXb Hội nhà văn. Khi ra đời nhiều tác phẩm trong số đó bị thu hồi, đình chỉ phát hành, cấm tái bản, còn lại hầu hết đều bị công văn cảnh cáo, yêu cầu sửa chữa….

Những gì vừa nói vừa là tư liệu, vừa cho tôi cảm hứng để viết cuốn hồi kí “Lách qua luật ngầm” . Tôi viết xong từ lâu, kết thúc ở việc tiểu thuyết “Mối chúa” bị đình bản. Sau khi về hưu năm 2020, tôi bổ sung chút ít và kết thúc ở việc xuất bản tiểu thuyết “Đất mồ côi”. Như vậy thời gian diễn ra các sự kiện trong cuốn sách kéo dài chẵn 20 năm, chính là thời gian tôi làm công việc biên tập sách tại Nhà xuất bản Hội nhà văn. Lường trước việc có lúc trí nhớ phản lại tác giả, vì thế những gì tôi chưa chắc chắn là sự thật, tôi thấy tốt nhất là không nói tới. Tôi luôn duy trì nguyên tắc cứng rắn: Để một cuốn hồi kí không vô dụng và không vô đạo đức, không nhất thiết sự thật nào cũng phải được nói ra, nhưng những gì đã quyết định nói ra thì phải là sự thật.

Hy vọng sẽ có lúc tôi đủ cảm hứng và can đảm xuất bản cuốn sách.

Dưới đây, xin tặng bạn đọc phần nói về sự kiện xuất bản tiểu thuyết “Trại súc vật”, một sự kiện xuất bản rõ ràng là lớn nhất, tạo ra nhiều thuyết âm mưu nhất, gây chấn động nhất trong dư luận cũng như đối với các cơ quan quản lý. (Có tất cả 6 kỳ)

------------------------------------

KỲ 1- GEORGE ORWELL VÀ TIỂU THUYẾT TRẠI SÚC VẬT

Nhà văn George Orwell (1903-1950) tên thật là Eric Arthur Blair (25/6/1903 – 21/1/1950), là một trong những cây bút tiếng Anh được hâm mộ và tranh cãi nhất ở thế kỷ 20. Sinh tại Ấn Độ, trong một gia đình như ông tự miêu tả là "nhóm dưới của tầng lớp thượng- trung lưu". Lên 5 tuổi ông được đưa đến trường nam sinh ở Henley-on-Thames. Nhờ học giỏi năm 14 tuổi, George Orwell nhận học bổng King’s Scholar vào trường Eton. Sau khi tốt nghiệp ông làm việc cho Indian Imperial Police (Lực lượng Cảnh sát thuộc địa) tại Miến Điện. Những hiện thực tại đây đã làm ông nhận ra bản chất tàn bạo của chủ nghĩa thực dân đế quốc. Năm 1927 ông quyết định từ chức và quay trở về Anh. Tác phẩm Burmese Days (Những ngày ở Miến Điện) xuất bản năm 1934 mang một cái nhìn tăm tối vào chủ nghĩa thực dân Anh tại Miến Điện chính là những trải nghiệm của ông khi còn ở xứ sở thuộc địa này.

Năm 1937, ông tới Tây Ban Nha, tham gia chiến đấu cho nền Cộng hòa chống lại lực lượng phát xít do Francisco Franco cầm đầu, mà như ông viết trong thư: “Nhất định phải ngăn chặn chủ nghĩa phát xít”. Theo ông, “quyền tự do và nền dân chủ đi liền với nhau, và cùng những thứ khác, bảo đảm tự do cho người nghệ sỹ; nền văn minh tư bản hiện hành bị tha hóa, nhưng chủ nghĩa phát xít là một thảm họa luân lý”.

Orwell sau đó bị thương nặng, và phải chuyển sang sống một thời gian tại Morocco trước khi trở về Anh. Những ngày chiến đấu chống độc tài Franco ảnh hưởng sâu sắc tới thế giới quan của Orwell và các tác phẩm sau này của ông như “Animal Fram” (Trại súc vật-Chuyện ở nông trại) hay “1984”.

Ông mất ngày 21 tháng Một năm 1950 trong một bệnh viện ở London.

Trại súc vật là một truyện ngụ ngôn mang màu sắc trào phúng lấy bối cảnh nông thôn nước Anh, kể về một nhóm gia súc nổi dậy đuổi ông chủ trại tên Joens đi và chiếm quyền quản lý. Thoạt đầu chúng đề ra những nguyên tắc bình đẳng rất cao cả và mang tính lý tưởng, với mong muốn tất cả mọi công dân trong Trại súc vật đều được sống một cuộc sống tươi đẹp, ấm no. Nhưng dần dần một số gia súc cứ từng bước nắm trọn quyền hành và trở nên tha hóa biến chất, cuộc sống trong nông trại ngày càng xa rời mục đích cao đẹp ban đầu. Cuối truyện, lũ gia súc trở lại liên minh với loài người, thế lực mà trước đây theo chúng là “kẻ thù thực sự duy nhất”. Cuộc sống trong trại lại trở về cảnh lam lũ như ngày còn chủ trại Jones.

Ngay từ khi ra đời, Trại súc vật đã gây nhiều tranh cãi. Giống như nhiều ngụ ngôn khác, tác phẩm có thể được diễn giải theo nhiều hướng khác nhau, có thể phù hợp hoàn toàn hay một phần với các sự việc, nhân vật trong thực tế lịch sử. Đặc biệt, do Trại súc vật ra đời ngay sau Thế chiến II, thời kỳ khởi đầu của Chiến tranh lạnh nên đây cũng là cuốn sách chịu nhiều ảnh hưởng chính trị, và bị các bên đưa ra các phán đoán chủ quan với mục đích riêng. Tới nay, tựu trung có 3 luồng ý kiến:

- Luồng thứ nhất, do các học giả của các nước tư bản thời kỳ 1950 khởi xướng, coi Trại súc vật là một câu chuyện thu nhỏ chế độ Stalin, trong đó miêu tả đậm nét cuộc tranh giành ảnh hưởng và quyền lực giữa Stalin và Trosky. Luồng ý kiến này đặc biệt được khai thác trong thời kỳ chiến tranh lạnh, với mục đích bôi nhọ Liên Xô.

- Luồng thứ hai, chỉ ra những ngụ ý của Orwell trong Trại súc vật với những diễn biến có thực dưới chế độ phát xít Đức, đặc biệt là những tương đồng giữa nhân vật Nã Phá Luân trong truyện với lãnh tụ đảng Quốc xã Adolf Hitler, bên cạnh đó là các chi tiết trùng hợp: vụ Nã Phá Luân say rượu tưởng bị mưu sát trong truyện với những cuộc mưu sát Hitler ngoài đời thật, vụ tàn sát cướp trứng nhóm gà mái với cuộc diệt chủng tàn bạo người Do Thái dưới chế độ phát xít, công cuộc xây cối xay gió với những kế hoạch to lớn của nước Đức quốc xã, vụ Nã Phá Luân giết 4 con lợn với cuộc thanh trừng các nhân vật chống đối năm 1937 v.v. Nhà tuyên truyền Joseph Göbbels, Bộ trưởng Bộ Thông tin Quần chúng và Tuyên truyền được xem là hình mẫu cho nhân vật Mồm Loa (Squealer) trong truyện.

- Luồng thứ ba, coi Trại súc vật đơn giản là một câu truyện ngụ ngôn, như chính Orwell đã đặt nhan đề phụ cho cuốn sách: “Animal Farm, a fairytale” với tất cả những đặc thù lâu đời của loại truyện này, từ ngụ ngôn Esop cho tới ngụ ngôn La Fontaine. Tác phẩm mượn cuộc sống của các con vật để thể hiện những tình cảm phổ quát của con người: tình yêu thương đồng loại, căm ghét bạo tàn, cũng như những bài học đã thành quen thuộc: quyền lực khi không được giám sát sẽ mau chóng bị tha hóa và di hại khôn lường.

George Orwell viết bản thảo của cuốn sách trong khoảng cuối năm 1943 đầu 1944. Ấn bản đầu tiên được Nhà xuất bản Secker and Warburg xuất bản năm 1945.

Cuốn sách luôn được vinh danh trong hầu hết các danh sách hay bảng xếp hạng uy tín. Tạp chí Time đã chọn cuốn sách này là một trong 100 tiểu thuyết hay nhất bằng tiếng Anh (1923 tới 2005). Đến nay, tác phẩm đã được in nhiều triệu bản, được dịch ra 70 thứ tiếng trên thế giới và thường xuyên được tái bản.

Trung Quốc là quốc gia có nhiều bản dịch nhất. Theo thống kê chưa đầy đủ hiện đã có tới gần 20 bản dịch khác nhau tác phẩm này. Nhà xuất bản Thượng Hải cũng đã xuất bản Trại súc vật từ năm 1989, bản dịch mới nhất do Nhà xuất bản Văn học nhân dân xuất bản năm 2012. Năm 2004, Trại súc vật được Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nam, Trung Quốc giới thiệu trong series “100 tác phẩm nổi tiếng ảnh hưởng tới cuộc đời trẻ thơ”.

Còn ở Việt Nam thì sao?

Việc xuất bản “Animal Farm” ở Việt Nam được tiến hành khá sớm, ngay những năm 50 của thế kỷ trước đã có bản dịch mang tên “Cuộc cách mạng trong trại súc vật”. Tới năm 1975 lại có một bản dịch của Giáo sư Đỗ Khánh Hoan mang tên “Trại súc vật”. Tuy nhiên do những hiểu lầm, ngộ nhận, cùng nhiều tranh cãi như đã nói trên, “Animal Farm” trở thành một vấn đề cấm kỵ bất thành văn trong công tác xuất bản, và một thời gian dài không có thêm bản dịch nào chính thức ra đời. Đây cũng là nguyên nhân khiến hiện nay có nhiều bản dịch trôi nổi trên mạng, hoặc được in không chính thức với chất lượng dịch, biên tập khó kiểm chứng và nội dung không được kiểm soát.


KỲ 2 - CÁC BÁO ĐẢNG ĐUA NHAU ĐƯA TIN VỀ TRẠI SÚC VẬT

“Trại súc vật”, sau khi đổi tên thành “Chuyện ở nông trại”, được phát hành bởi Nhã Nam, thông qua Nhà xuất bản HNV, dựa trên bản dịch của An Lý, nghe nói còn rất trẻ.

Cho đến giờ tôi vẫn chưa từng một lần gặp mặt dịch giả, cũng không biết tí gì về thân thế, sự nghiệp của cô ta. Về mặt lý thuyết thì cuốn sách tuân thủ đúng các quy trình theo Luật xuất bản hiện hành, được dịch và biên tập kỹ lưỡng, phát hành rộng rãi một cách công khai cho đến khi có lệnh thu hồi.

Thực sự tận khi nhận bản thảo “Trại súc vật”, tôi mới biết đến cuốn tiểu thuyết đình đám này, còn trước đó, hầu như tôi chỉ biết chút ít về nó cùng cái tên tác giả, nhờ một bài báo ngắn mà tôi không thể nhớ mình đọc ở đâu.

Nếu không lầm thì đó là vào khoảng những năm 1989, khi phong trào Cải tổ đang vào giai đoạn cao trào ở Liên –Xô, một tờ báo của ta đã đưa dòng tin ngắn là lần đầu tiên, cùng với "Quần đảo địa ngục", "Lolita", tiểu thuyết "Trại súc vật" của George Orwell được xuất bản ở Liên-Xô. Tác giả bài báo, trong mục thông tin văn nghệ, chỉ tóm tắt sơ qua về nội dung, đại ý nó phê phán độc tài, thói giả nhân giả nghĩa và những cuộc tàn sát ngầm người bất đồng quan điểm dưới thời Staline (hay là Hitler gì đó mà tôi không nhớ rõ).

Tại Liên-Xô thời gian đó, Gooc-ba-chốp vừa có bài diễn văn nổi tiếng tố cáo những tội ác man rợ của Staline. Báo Nhân Dân của Việt Nam, ngày nào cũng dành một góc trang trọng phía phải, bên trên của trang nhất để in ý kiến, chỉ thị, phát biểu, những việc làm của M.X Gooc-ba-chốp tít tận Liên Xô xa xôi, coi như những lời vàng ý ngọc của lãnh tụ lớn lãnh đạo phong trào cộng sản thế giới. Lúc bấy giờ chưa có sự kiện bức tường Berlin sụp đổ, chưa có Hội nghị Thành Đô trong khi Bắc Kinh thì đang tràn ngập sinh viên đòi dân chủ trên quảng trường Thiên An Môn. Trong không khí đó, việc đưa tin "Trại súc vật" được xuất bản sau gần nửa thế kỷ bị cấm tiệt tại tất cả các nước xã hội chủ nghĩa, trở thành một cái tin bình thường. Thậm chí người ta còn dám công khai cả chuyến hồi hương của văn hào Alexandre Soljenitsyne bằng giọng điệu đầy trìu mến và ca ngợi sự giản dị của văn hào khi ông đi tầu chợ, ở khách sạn bình dân, từ chối giải thưởng văn học Nhà nước Nga chứ không phiền đến Chính phủ của Ngài Enxin, vốn rất muốn bù trì cho nỗi khổ cực mà ông từng phải chịu bằng bất cứ ưu đãi nào mà ông muốn.

Tuy thế tôi cũng không bị thu hút quá mạnh vào thông tin về cuốn sách, như đáng lẽ nó phải thế. Bởi vì cái tên George Orwell hầu như vẫn xa lạ tuyệt đối với thế hệ mù ngoại ngữ, bị bưng bít toàn phần như lớp tuổi tôi. Khi có điều kiện tìm hiểu thì tính thời sự của nó qua mất.

Tôi chỉ lưu trong đầu đúng cái tên tiểu thuyết.

Nhưng hóa ra không chỉ mình tôi như vậy.

Khi “Chuyện ở nông trại” chính thức ra mắt, Nhã Nam tiến hành họp báo giới thiệu. Tất cả vẫn vô cùng hồn nhiên. Cả người chủ trì là Nhã Nam và các phóng viên, cùng chung một tâm trạng háo hức. Chỉ sau vài tiếng đồng hồ, mấy chục tờ báo điện tử trong hệ thống đảng, từ trung ương đến địa phương đều đồng loạt đưa tin lên trang nhất với cái tít lớn: “Truyện ngụ ngôn nổi tiếng của George Orwell đã đến Việt Nam”. Có báo còn đưa luôn cả thông tin về tác phẩm nằm trong số 100 cuốn sách hay nhất của thế kỉ hai mươi, đứng thứ 31theo thứ tự xếp hạng, đã được dịch và in ở trên 70 quốc gia.

Xin kể tên một số tờ báo và trang mạng đưa tin vào loại nhanh nhất: Báo Quân đội nhân dân cuối tuần, Tạp chí Tuyên giáo, Tạp chí xây dựng Đảng, Báo Hà Nội mới, Trang thông tin của Cổng chính phủ, Báo Đà Nẵng, Báo Hưng Yên, Báo gia đình…Các báo vừa ghi tên Chuyện ở nông trại, vừa mở ngoặc chú thêm tên nguyên bản là Trại súc vật, trương lên chiếc bìa một vàng rực và đập vào mắt mọi người.

Sau đây là nội dung bài giới thiệu in trên báo Hà Nội Mới online, vào lúc 15:57 ngày 04/3 năm 2013, kí tên Hoàng Lân, với hàng tít nổi bật: "Truyện ngụ ngôn kinh điển thế giới có mặt tại Việt Nam".

"Truyện ngụ ngôn kinh điển của tác giả “George Orwell”-Chuyện ở nông trại -vừa được Công ty văn hoá và truyền thông Nhã Nam phát hành và giới thiệu tại Việt Nam. Chuyện ở nông trại đã in được hàng triệu bản, được dịch ra 70 thứ tiếng trên thế giới đồng thời đứng ở vị trí 31 trong Danh sách tiểu thuyết hay nhất thế kỷ 20.

Đây là tác phẩm ngụ ngôn kinh điển về xã hội của thế kỷ 20, song cũng lại là một câu chuyện giản đơn về việc những ý định tốt có thể dễ dàng bị biến đổi ra sao nếu như mỗi người chỉ tư lợi cho bản thân. Sau hơn nửa thế kỷ từ lần xuất bản đầu tiên, Chuyện ở nông trại đã in được hàng triệu bản. Sách có mặt trong 100 tiểu thuyết hay nhất bằng tiếng Anh của Tạp chí Time. Tại Trung Quốc, Chuyện ở nông trại cũng đã được xuất bản từ rất sớm. Tới nay đã có khoảng gần 20 bản tiếng Trung.

“Chuyện ở nông trại” mở đầu khi bọn gia súc trong một nông trại nằm ở một vùng nông thôn của nước Anh nghe theo lời Ông Cả, một chú lợn thông thái tiến hành khởi nghĩa,lật đổ ông chủ trại Jones chiếm lấy quyền điều hành nông trại, với mục đích cao cả là đem lại bình đẳng cho mọi con vật, giải thoát chúng khỏi sự áp chế của loài người. Chúng âm thầm chuẩn bị, nhưng phải đến sau khi Ông Cả qua đời, bọn gia súc mới nổi dậy thành công dưới sự lãnh đạo của hai chú lợn, Nã Phá Luân và Tuyết Cầu. Khi trại đã về tay gia súc,chúng đề ra những nguyên tắc đẹp đẽ, mọi súc vật trong trại đều phải tuân theo,với mong muốn từ nay tất cả mọi thành viên đều được sống một cuộc sống tươi đẹp, ấm no và “mọi con vật đều bình đẳng”.

Thế nhưng những ngày tươi đẹp sau khởi nghĩa của lũ gia súc không kéo dài lâu, giữa Nã Phá Luân và Tuyết Cầu nhanh chóng nảy sinh mâu thuẫn về tương lai của nông trại, mà thực chất là biểu hiện của cuộc cạnh tranh quyền lực giữa chúng. Cuối cùng, những điều tệ nhất của nông trại này đã lại xảy ra.

Nhà văn nổi tiếng George Orwell viết bản thảo của cuốn sách trong khoảng cuối năm 1943 đầu 1944. Việc xuất bản cuốn sách ban đầu gặp nhiều khó khăn nên đến năm 1945 bản in đầu tiên mới được NXB Secker and Warburg xuất bản.

Nhưng sau những trở ngại đầu tiên, Chuyện ở nông trại đã trở thành một thành công nhanh chóng. Việc thiếu giấy sau Thế chiến II tại Anh đã khiến số bản in tại nước này bị giới hạn, nhưng tính đến 1950 vẫn có đến 25.500 bản sách được ra đời tại Anh và 590.000 bản tại Mỹ. Cuốn sách luôn được vinh danh trong hầu hết các danh sách hay bảng xếp hạng uy tín. Tạp chí Time đã chọn cuốn sách này là một trong 100 tiểu thuyết hay nhất bằng tiếng Anh (1923 tới 2005)"

(Hết trích)

Tuy nhiên, chỉ sau khoảng ba, bốn ngày, (có tờ chỉ sau chưa đầy một ngày) là tất cả những báo trên đều rút bài, đóng cửa kiểm điểm nhau chí tử. Điều đó chứng tỏ, ấn tượng về cuốn sách không có trong rất nhiều người. Phần lớn những vị “lính gác cửa của chế độ” đều chưa từng một lần nghe tên của “kẻ đáng chết nhất mọi thời đại” khi hắn chế ra “quả bom bẩn” đặt vào chân móng chế độ. Nếu biết rằng quy trình duyệt in bài của những báo đó nghiệt ngã thế nào, thì sẽ thấy "Trại súc vật" thậm chí còn không nằm trong kho từ phải cảnh giác cao độ.

Nhưng hóa ra, trước đó không lâu, "Trại súc vật" được xuất bản với đúng cái tên ấy bởi Nhà xuất bản Giấy Vụn của nhóm Mở miệng ở thành phố Hồ Chí Minh, do một dịch giả nổi tiếng chuyển ngữ. Nhưng nó không gây nên sự ồn ào nào đáng kể trong số đông độc giả đang mua sách hiện nay. Giải thích về hiện tượng đó cực kỳ đơn giản nhưng không phải ai cũng biết hoặc công nhận. Với thói quen chuộng chính thống ngấm vào từng mao mạch của người Việt, với hàng nửa thế kỷ bị nhồi sọ tinh thần địch-ta, đa số bạn đọc hiện nay vẫn giữ nguyên não trạng thứ gì chính thống, hợp pháp mới là thứ đáng tin. Vì thế, tính chính danh của một cuốn sách chưa khi nào thôi quan trọng, nếu muốn thu hút sự quan tâm của độc giả. Nhiều người không thừa nhận điều này. Với họ thì việc in ở các trang cá nhân, in ở nước ngoài, với in ở Nhà xuất bản của Nhà nước chẳng có gì khác nhau. Đúng là chẳng có tí gì khác nhau về nội dung văn bản. Thậm chí lấy trên mạng còn dễ hơn đi mua một cuốn sách với nội dung y hệt nhau. Nhưng tác dụng xã hội của chúng thì, bất chấp mọi lý lẽ, lại vẫn cứ khác nhau rất xa, ít ra là trong bối cảnh cụ thể Việt Nam với thói quen văn hóa như tôi vừa nói. Phần lớn bạn đọc vẫn mặc nhiên coi những gì in trên các trang mạng, nhà xuất bản không chính thức là không đáng tin, thậm chí còn đi xa hơn khi gán cho nó là do bọn phản động tuyên truyền. Đã là phản động thì đương nhiên họ phải tố cáo xã hội, tố cáo những người lãnh đạo, moi móc hoặc bịa ra những tiêu cực, vẽ ra mọi sự thối nát để bôi xấu chính quyền, thể chế. Khi đã bị tâm lý đó chi phối, thì người ta thờ ơ với mọi vấn đề, không coi nó là thật, chứ chẳng riêng gì sách. Mà đã không coi là thật, thì theo quy luật tâm lý, vấn đề đó không tạo ra bất cứ xúc tác nào mang tính lan truyền.

Nhưng cũng vấn đề ấy, cuốn sách ấy mà đọc trên báo chính thống, được xuất bản bởi một nhà xuất bản chính thống, thì đầu tiên người ta tin ngay những gì có trong nội dung đều là thật. Chỉ sự thật mới có thể gây sốc về tâm lý, trước khi dẫn hướng tới các phản ứng khác: Căm phẫn, khinh bỉ, không chấp nhận…Bất chấp sự không công nhận của những người theo chủ nghĩa tự do, thực tế đó (rõ ràng là bất công) hiện tại vẫn chưa thay đổi nhiều. Những nhà quản lý tư tưởng của chế độ luôn là những người hiểu hơn ai hết thực tế tâm lý này. Vì thế, họ làm tất cả để ngăn cản tối đa sao cho càng ít càng tốt sự ra đời, lan truyền bài báo, cuốn sách nào mà họ không thích tìm được cách chính thống hóa trước khi đến với độc giả.

Tôi thì gọi đó là sức mạnh của tính hợp pháp.


KỲ 3 - DƯ LUẬN VÀ CÁC THUYẾT ÂM MƯU

Có rất nhiều lời đồn đoán cũng như các giả thiết mang mầu sắc thuyết âm mưu về việc “Trại súc vật” được xuất bản chính thức tại một nhà xuất bản lớn.

Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp đầy tự tin khẳng định có sự đánh đấm hạ bệ nhau từ Bộ chính trị và bọn Trung Trung Đỉnh, Tạ Duy Anh chỉ là mấy kẻ được nhờ đánh thuê. Ông cho rằng nếu không có phe nhóm nào tầm cỡ Bộ chính trị bật đèn xanh rồi chống lưng, thì “mấy thằng cha kia” có cho mật gấu cũng không dám. Quan điểm này được Nguyễn Huy Thiệp bảo lưu nhiều năm sau, ngay cả khi mọi sóng gió về cuốn sách đã tạm lắng lại.

Tôi không nghe trực tiếp từ Nguyễn Huy Thiệp, mà nghe qua lời kể của nhà thơ Bảo Sinh, người bạn vong niên tâm giao nhất của ông hiện vẫn đang rất khỏe mạnh và lãng mạn.

Theo nhà thơ Hữu Thỉnh, thì có hẳn cả một nhóm chống phá đảng nằm mai phục suốt 70 năm qua. Chúng rất kiên trì và nham hiểm, ém rất sâu, chỉ chờ đảng ta “sơ suất” là đặt bằng được “quả bom bẩn” vào tận móng chế độ. Nhà thơ Chủ tịch Hội nhà văn còn đưa ra cả “các bằng chứng” theo ông không thể thuyết phục hơn để khẳng định ý kiến không chỉ của ông, mà của cả cơ quan chức năng. (Xin mời đọc phần sau).

Một hôm, sau khi Trại súc vật đã “nằm trên thớt”, vào lúc đã khá khuya, nhà thơ Trần Quang Quý gọi điện cho tôi thông báo ông nghe tin có mấy nhà văn cùng tố cáo tôi lên cấp trên, rằng Tạ Duy Anh là “kẻ chống cộng số một” trong Hội nhà văn vì thế ông ta đang rất ‘khoái chí” vì xuất bản thành công Trại súc vật. Trần Quang Quý sau đó cứ hỏi tôi có đọc kỹ tác phẩm không, nếu đọc kỹ chả lẽ không biết nội dung của nó nhằm vào chế độ Staline? Tôi bèn bảo Trần Quang Quý rằng cứ để họ muốn hiểu thế nào cũng được.

Một luồng dư luận thầm thì khác thì cho rằng, cả tôi là biên tập và những người đọc duyệt đều không đọc bản thảo, nên không biết nội dung của nó nói về chuyện gì. Tức là cuốn tiểu thuyết ra đời được là do Nhà xuất bản điếc nên không sợ súng. Nhà báo nổi tiếng Phạm Đoan Trang, người đang thụ án 9 năm tù về tội “chống phá nhà nước!?” trả lời một tờ báo nước ngoài xuất bản bằng tiếng Việt rằng, cô không bao giờ tin những người cấp phép xuất bản "Trại súc vật" gan to đến thế? Theo ý cô “Chỉ có thể là họ không đọc”.

Luồng ý kiến đông đảo nhất và cũng đáng buồn nhất là nhiều người trách móc Nhà xuất bản đã cho ra đời một cuốn sách “có nội dung độc hại”. Trong số những người đó có khá nhiều đồng nghiệp của chúng tôi. Một nhà văn vốn rất có thiện cảm với Nhà xuất bản, vẫn thường khen chúng tôi mạnh mẽ và có gu thẩm mỹ, nhưng gặp tôi ông cũng nhăn mặt nhăn mày bảo: “Nói gì thì nói, việc các cậu cho in Trại súc vật là không thể chấp nhận được. Cái gì cũng có giới hạn của nó thôi chứ”.

Bạn tôi, cán bộ ngân hàng, một lần phải tham gia lớp tập huấn chính trị. Trong chương trình có buổi lên lớp của một ông báo cáo viên, về tình hình an ninh chung của đất nước. Ông này coi việc xuất bản Trại súc vật là một sự cố an ninh nghiêm trọng.

Còn vô số câu hỏi khác, vô số lời thì thầm truyền tai nhau, vô số thắc mắc, vô số giả định…về sự có mặt của cuốn tiểu thuyết.

Đúng là-như một câu châm ngôn phương Tây-khi nhân chứng im lặng thì xuất hiện huyền thoại.


KỲ 4 - CUNG ĐÌNH NỔI GIẬN

Về nhiều mặt, Đinh Thế Huynh không có gì so được với Hữu Thỉnh. So với uy tín văn chương, báo chí, Đinh Thế Huynh luôn chỉ là bậc đàn em của Hữu Thỉnh.

Nhưng Hữu Thỉnh không là gì, so với Đinh Thế Huynh, về mặt quyền lực. Là Ủy viên Bộ chính trị, dưới mắt Đinh Thế Huynh thì Chủ tịch Hội nhà văn chỉ là người giúp việc đúng nghĩa.

Việc để lọt Trại súc vật đã khiến Cung đình nổi giận. Qua chính miệng Hữu Thỉnh, thì ông bị Trưởng ban truyên giáo là Đinh Thế Huynh “gọi” lên mấy lần chỉ trong một thời gian ngắn. Nỗi uất ức của Hữu Thỉnh là có thật. Và ông không thể không trút nó lên một ai đó.

Tuy nhiên, sức ép lên lãnh đạo Hội nhà văn càng ngày càng mạnh không chỉ đến từ các cơ quan chức năng. Sức ép còn đến từ nhiều nhà văn đồng nghiệp của chúng tôi.

Hữu Thỉnh không còn lựa chọn nào khác là phải ra tay.

Trong cuộc họp chính thức với Nhà xuất bản Hội nhà văn về cuốn Chuyện ở nông trại, ngoài Hữu Thỉnh là chủ tịch Hội, cơ quan chủ quản của Nhà xuất bản, có thêm nhà văn Khuất Quang Thụy, trưởng ban kiểm tra, nhà thơ Nguyễn Hoa, trưởng ban tổ chức của Hội cùng vài ba người khác mà tôi không nhớ cụ thể.

Vào cuộc họp, Hữu Thỉnh đề nghị ban giám đốc Nhà xuất bản phát biểu theo tinh thần phải nhận ra tội lỗi nghiêm trọng của mình. Ông nhắc đi nhắc lại là ông chỉ nghe những lời nhận tội, chứ không nghe thanh minh, giải thích. Còn thanh minh, giải thích tức là chưa nhận thức được tính nghiêm trọng của vấn đề. Trong khi tội lỗi-ông nhấn mạnh-thì rõ ràng như ban ngày rồi. Cuốn sách có nội dung chống cộng là điều không cần phải bàn cãi, thậm chí là cuốn sách chống cộng số một cũng không cần phải bàn cãi.

Sau khi mào đầu gay gắt như vậy, Hữu Thỉnh ngồi nghe chăm chú, nét mặt lộ ra (lần này thì tôi không biết là thật hay ông vẫn lại đang đóng kịch?) vẻ đau khổ pha sự căm giận. Có lẽ tôi thấy ông nghiêm túc nhất từ trước tới nay khi tham gia một hội nghị và vì thế mà cũng tức cười nhất.

Trung Trung Đỉnh phát biểu đầu tiên. Khi Trại súc vật ra khỏi nhà in, Nhã Nam mang cho tôi 5 cuốn. Vừa lúc ra tết, nhà phê bình Ngô Thảo mời Trung Trung Đỉnh và tôi đi ăn món nướng Hàn Quốc. Tôi bèn cầm theo một cuốn làm quà cho ông. Trước mặt Trung Trung Đỉnh, tôi bảo với Ngô Thảo:

- Tặng bác cuốn này, để từ nay về sau bác chớ có coi thường tụi em.

Ngô Thảo đón cuốn sách, cười, bảo:

- Oách đấy!

Trong khi Trung Trung Đỉnh không hề biểu lộ một cảm xúc nào.

Sau đó tôi còn đưa vài cuốn nữa cho vài người, trước mắt Trung Trung Đỉnh, khiến một hôm ông hỏi:

- Cuốn sách có cái đéo gì hay mà tao thấy mày tặng ai mặt cũng hớn hở thế?

Tôi bảo ông:

- À, truyện ngụ ngôn ấy mà. Nay mai rồi bác cũng biết thôi.

Khi cuộc họp này diễn ra, Trung Trung Đỉnh đã biết nội dung cuốn sách nói gì. Nhưng ông chẳng hề biểu lộ sự lo lắng, ít nhất thì cũng vờ lo lắng. Vẫn với lối nói mà người nghe rất khó chắp nối nội dung, cố giấu đi vẻ bông lơn, Trung Trung Đỉnh thú nhận ông chỉ đọc cuốn sách sau khi có dư luận ồn ào và bị cấp trên yêu cầu. Ông lý sự: “Tôi là giám đốc, làm sao tôi đọc hết mọi bản thảo đưa duyệt”.

- Nhưng mà thú thực là tôi thấy cuốn sách rất hay- Trung Trung Đỉnh hồn nhiên dội cả một gáo nước lạnh vào đầu Hữu Thỉnh. Đã thế ông lại còn ê a nói thêm rằng ông rất thích cuốn tiểu thuyết này, không nghĩ là nó lại chống cộng như mọi người vừa chỉ cho ông thấy. Vì thế ông nhận toàn bộ trách nhiệm về mình. Ông đề nghị nếu có kỷ luật thì chỉ kỉ luật mình ông.

Trung Trung Đỉnh nói xong thì cười rất “đáng ghét”, như thói quen của ông ta mỗi khi bàn những chuyện cấp trên coi là nghiêm trọng. Hữu Thỉnh cực kỳ nhạy cảm khi phán đoán thái độ người khác nên nghe Trung Trung Đỉnh nói xong, ông thể hiện ra mặt sự không hài lòng. Ông muốn cấp dưới phải tỏ thái độ hối lỗi sâu sắc, hối lỗi toàn diện trong từng âm tiết phát ra. Ông muốn cấp dưới phải hơi run sợ một chút, lập cập trong ăn nói một chút. Nhưng cách nhận tội của Trung Trung Đỉnh thì lại ngầm tỏ ra là ông ta bất cần, thậm chí còn như muốn nói, chuyện đã xảy ra rồi, giờ các vị muốn làm đéo gì nhau thì làm đi. Nhất là cái kiểu cười cợt không đúng lúc rất khó chịu của Trung Trung Đỉnh làm Hữu Thỉnh thấy điên tiết.

Nhưng Hữu Thỉnh quyết định ngồi im, nghe tiếp lời phát biểu của Trần Quang Quý, phó giám đốc, trực tiếp ký duyệt nội dung. Ông Quý vốn là người lợi khẩu, trình bày vấn đề gì đều rất có lớp có lang, khúc chiết, logic, có lúc nhẩn nha, có lúc hùng hồn, lên bổng xuống trầm, thu hút được người nghe. Thế nhưng lần này Trần Quang Quý tỏ ra có chút lúng túng. Lý do của sự lúng túng ấy thì chỉ mình tôi biết. Ông rất muốn nói là ông chưa đọc khi đặt bút kí duyệt nhưng cũng không muốn người khác hiểu là ông không biết gì về cuốn Trại súc vật. Mà có nói thật thế thì cũng chẳng ai tin. Một nhà văn cộng sản mà mất cảnh giác với Trại súc vật, nhất là khi nó được coi là cuốn sách chống cộng số một, là điều khó tha thứ, còn nặng hơn là hồ đồ thiếu trách nhiệm ký bừa. Sau một hồi vòng vo, nhưng kết lại Trần Quang Quý cũng nhận trách nhiệm về mình mà không đổ lỗi cho bất cứ ai.

Khi ông Quý phát biểu xong, không ai bảo ai nhưng mọi người cùng đổ dồn mắt về phía tôi. Hữu Thỉnh thì chỉ liếc nhanh rồi ngồi lại tư thế của một ông phán quan, mặt lạnh tanh hay là ông cố làm ra thế. Một vài ánh mắt lo lắng cho tôi. Đáp lại, tôi cũng thể hiện thái độ là tôi đang rất nghiêm túc. Khi tôi nói thì Nguyễn Hoa và Hữu Thỉnh cầm bút và sổ ghi chép. Lần này thì tôi biết rõ là ông đóng kịch, vì ông quá thừa kinh nghiệm để hiểu rằng những gì diễn ra tại căn phòng này sau đó đều đến tai cấp trên trực tiếp của ông không sót một chi tiết. Thậm chí nó đang được tường thuật trực tiếp theo một cách nào đó. Bằng cách nào thì sẽ còn là bí ẩn. Họ, những người mà Hữu Thỉnh rất sợ, sẽ căn cứ vào vẻ mặt và thái độ, lời nói của ông để đánh giá ông có thành khẩn nhận lỗi buông lỏng quản lý hay không? Lập trường tư tưởng của ông có vững vàng, kiên định hay không? Ông có thực lòng nghiêm khắc với sai sót nghiêm trọng của cấp dưới hay không để đánh giá thái độ chính trị của ông? Đó sẽ là chỉ số của lòng trung thành mà, tiếc thay cho ông vẫn luôn không đủ để chiếm được điểm cao nhất từ một số lãnh đạo, dù ông đã miệt mài nỗ lực chứng minh bằng nhiều cách trong suốt nửa thế kỉ.

Bắt đầu bài phát biểu, trước hết tôi nói một chút chuyện ngoài lề. Tôi bảo trong hơn mười năm công tác tại Nhà xuất bản, đã có khoảng vài chục cuốn do tôi biên tập được Hội nhà văn, Liên hiệp các Hội văn học nghệ thuật trao giải, trong đó có cả cuốn thơ của chủ tịch Hữu Thỉnh. Nếu giải thưởng của Hội được coi là có giá trị, thì cũng phải ghi công cho tôi chứ. Nhưng mấy chục cuốn ấy thì không ai nhắc đến, trong khi cứ nhè những cuốn bị coi là có vấn đề (so với quan điểm chính thống chứ thực ra đều là những cuốn thực sự có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, chẳng hạn Lolita của Nabocob) để quy kết tôi tội này tội khác. Cứ nhắc tên tôi là người ta nghĩ ngay đến những cuốn sách bị coi là vượt rào về quan điểm. Nhưng tôi bảo tôi không quan tâm đến những đánh giá đó. Tiện có chủ tịch ở đây, tôi chỉ nói thế thôi.

Sau đó tôi trình bày diễn biến của quá trình biên tập. Tôi nói thật là TRƯỚC ĐÂY tôi chưa hề đọc cuốn nào của nhà văn George Orwell. Có muốn đọc cũng không có. Nhà nước cấm đoán ngặt như vậy thì đọc vào đâu. Vì thế, khi đọc cuốn Chuyện ở nông trại, tôi thấy nó rất hay, mang tính phê phán độc tài rất cao, vạch trần thói đạo đức giả rất thâm thúy, lại được cả thế giới vinh danh là một trong một trăm cuốn sách hay nhất của thế kỷ 20. Một cuốn sách như vậy không lý gì mà bạn đọc Việt Nam lại không được đọc. Tôi, với tư cách là người làm cầu nối giữa tác giả và bạn đọc, không thể bỏ qua cơ hội quý báu như vậy. Vì thế mà tôi đã làm bản thẩm định mà bất cứ lãnh đạo nào đọc được cũng phải cầm bút kí duyệt cho xuất bản.

Mọi người ngồi nghe tôi nói thì im phăng phắc, khung cảnh chỉ thấy trong các tòa án khi chờ tuyên tội. Hữu Thỉnh nhìn lên trần nhà để khỏi phải lộ ra vẻ mặt một trăm phần trăm không tin. Khuất Quang Thụy nhìn ra cửa, trong khi Nguyễn Hoa thì thật thà xúc động. Trung Trung Đỉnh và Trần Quang Quý không biểu lộ sắc thái tình cảm đồng tình hay nghi ngờ, mà theo đuổi ý nghĩ của những kẻ cùng một giuộc, cười thầm trong bụng.

- Về nội dung có tính ám chỉ- tôi nói tiếp- nghe mọi người bảo là ám chỉ Staline và chủ nghĩa cộng sản, thì tôi cũng mới biết, chứ trong thâm tâm khi đề nghị duyệt in, tôi đinh ninh cuốn sách ám chỉ Hitler và đồng đảng của hắn. Việc hai nhân vật này giống nhau về hành vi, bản tính và việc hai chế độ Cộng sản và Quốc xã có nét tương đồng khiến các vị suy diễn, là điều tôi không quan tâm vì chính các vị không công nhận. Các vị cứ đọc kỹ mà xem. Hitler và đảng Quốc xã cũng xưng với nhau là đồng chí. Nhân vật Nã-phá-luân gần như mô phỏng nguyên si tính cách của Hitler: Tàn bạo, độc đoán, giả nhân giả nghĩa. Nhân mật Mồm Loe thì còn ai khác ngoài Gơ-ben, bộ trưởng tuyên truyền của Đức quốc xã.

Phòng họp im phăng phắc, nhưng là sự im lặng của nỗi sợ cơn sấm sét sắp nổ ra. Vẫn chỉ có Nguyễn Hoa là thật thà xúc động. Còn lại, mọi người đều biết tôi đang diễn vở kịch để chế nhạo là chính, biến toàn bộ cấp trên thành đám hề.

- Tôi thấy ý kiến của Tạ Duy Anh có cơ sở đấy- thêm một người tỏ ra thật thà- Đúng là có hình bóng của Hitler trong nhân vật Nã-phá-luân. Nếu không có dư luận từ trước bảo cuốn sách chống cộng, thì có thể nói đó là cuốn sách chống Phát-xít cũng hoàn toàn hợp với nội dung và tôi cũng tin như vậy.

Lời phát biểu của ông Phó giám đốc Trần Quang Quý rõ ràng là rơi tõm ngay vào im lặng. Về phần mình, tôi coi như đã nói hết, vì thế tự đưa ra kết luận và nó nguyên văn như sau:

- Tôi nhận toàn bộ trách nhiệm về việc để ra đời cuốn sách Chuyện ở nông trại. Tôi đã viết một lời thẩm định không chỉ ông Quý, ông Đỉnh mà bất cứ ai cũng sẽ kí duyệt. Nay tôi nhận mọi hình thức kỉ luật và không liên quan đến ai khác. Các hình thức ấy là khiển trách, cảnh cáo, hạ bậc lương, chuyển sang làm việc khác, buộc thôi việc, ra khỏi Hội nhà văn hoặc bất cứ hình thức nào nữa nếu Hội muốn và cấp trên nào đó muốn. Tôi vui vẻ chấp nhận tất và không có bất cứ thắc mắc hay oán thán nào.


KỲ 5 - LUẬN TỘI

Lần này thì ngay cả nhìn vào đâu cũng là lựa chọn khó khăn cho Hữu Thỉnh và những người dự họp. Mất một lúc lâu Khuất Quang Thụy mới phá vỡ bế tắc bằng lời phát biểu. Nghe đồn ông nhà văn này nổi tiếng khôn ngoan, nên mọi người rất tò mò chờ ý kiến của ông, với tư cách là “quan thanh tra”. Ra mặt phê phán Nhà xuất bản trong đó có tới những bốn đồng nghiệp đang làm việc từng là đồng môn, chắc chắn không phải là lựa chọn thức thời. Nhưng ông phải thể hiện thái độ vì ông là đảng viên, là trưởng ban Kiểm tra của Hội, là cấp dưới thân cận của Hữu Thỉnh. Cuối cùng, phải công nhận là lời đồn về Khuất Quang Thụy không sai, khi ông bảo rằng, ông biết đến cuốn Trại súc vật từ hồi đi thăm và dự trại sáng tác văn học tại Liên Xô.

- Mọi người khen lắm. Khen hết lời luôn. Các thầy giáo dạy tôi cũng rất khen. Có thể nói cuốn sách được đón nhận nồng nhiệt khắp nơi.

Khuất Quang Thụy dừng lại. Mọi người thở phào, coi như có thêm một phiếu ủng hộ cho phe “làm loạn”.

- Nhưng-Khuất Quang Thụy nói tiếp- hồi đó ở Liên-Xô đang diễn ra cuộc cải tổ, tâm lý chung của dân chúng là ghét Cộng sản, ghét ghê gớm. Đâu đâu cũng muốn vạch tội Cộng sản. Có thể vì thế mà người ta rất thích Trại súc vật.

Thế là mọi người muốn hiểu thế nào cũng được. Một cuốn sách được nhiều người thích, chắc phải là cuốn sách hay. Nhưng cái đám thích ấy là những kẻ đang muốn bài trừ Cộng sản, chắc cuốn sách phải có tư tưởng, giá trị phù hợp với họ. Ông không nói cuốn sách chống Cộng, nhưng cũng khó để hiểu là nó không chống Cộng. Người nào hiểu thế nào, sẽ phải chịu trách nhiệm về cách hiểu của mình.

Đúng là Khuất Quang Thụy! Không bao giờ ông tự đẩy mình vào chỗ nguy hiểm.

Theo đúng thủ tục, Nguyễn Hoa cũng phải có vài lời. Ông nhà thơ này vốn hiền lành, lại từng tai biến nên nói năng nhỏ nhẹ, ba phải, ề à, chung chung chẳng chết ai nhưng cũng chẳng cứu ai. Chỉ cứ thấy “dưng mà, dưng mà, mới lại”…Đại ý Nhà xuất bản cần rút kinh nghiệm và nên lắng nghe ý kiến lãnh đạo.

Giờ là giây phút đáng chờ đợi nhất: Hữu Thỉnh phát biểu. Ông sẽ phân tích, mổ xẻ, đưa ra quan điểm và kết luận về mức độ sai phạm của Nhà xuất bản và từng cá nhân liên quan, từ đó có hình thức kỉ luận thích đáng.

Thoạt đầu ông nhìn mọi người, cười cười nhưng là lối cười nhạt, cười hàm ý biết hết bụng dạ người khác, không giấu chút lạnh nhạt, rất đặc trưng Hữu Thỉnh khi cần phải mỉa mai ai đó. Bất ngờ ông nhìn thẳng vào tôi nói bằng thứ giọng nhẹ nhàng nhưng có gang có thép:

-Hôm nay tôi sang đây không phải để nghe ông Tạ Duy Anh kể công. Ai chả biết ông Tạ Duy Anh biên tập nhiều cuốn sách được giải-giọng ông không giấu sự giễu cợt.

Ông còn nói những gì nữa, vẫn bằng thứ giọng như vậy, nhưng tôi không để tâm. Sau đó ông quay sang vấn đề chính là cuốn Trại súc vật. Ông nói về tầm mức cực kì nghiêm trọng của việc để lọt lưới một tác phẩm chống Cộng vô cùng khốn nạn. Ông nhắc đi nhắc lại cụm từ cực kì nghiêm trọng. Ông tường thuật lại những lần lên làm việc với lãnh đạo Bộ Chính trị, nghe lãnh đạo đánh giá, nhận định, có đối chiếu với thông tin chứ không nói suông. Ông truyền đạt lại ý kiến của các chuyên gia, của các thành viên trong Hội đồng lý luận trung ương, của Ban chấp hành Hội nhà văn, của công an văn hóa…Tất cả đều thống nhất là vụ việc cực kì nghiêm trọng.

-Bảy mươi năm đảng ta canh chừng cẩn thận từng giây từng phút, vậy mà chỉ sơ sểnh hở ra mấy tích tắc là kẻ thù mang ngay được quả bom bẩn đặt vào tận móng nhà, với chủ định đánh sập-Miệng Hữu Thỉnh uốn lượn, mở ra, khép vào, bĩu môi sang trái sang phải, lên xuống theo cảm xúc của ông-Phải nhận ngay đây là một tội trạng lớn, một việc làm nhục nhã, không thể tha thứ-ông nhấn mạnh và khẳng định gay gắt-Không lý lẽ nào bao biện được rằng đây không phải là cuốn sách chống Cộng số một, một quả bom nguyên tử đánh vào hệ tư tưởng, một quả bom bẩn về văn hóa nhằm vào tim của chế độ với ý đồ rõ ràng là bôi nhọ rồi đánh sập. Đánh sập, đánh sập…tôi nhắc lại, không phải chuyện nhỏ đâu.

Tôi nghe hết ý kiến của nhà văn Tạ Duy Anh -Hữu Thỉnh không nhìn tôi mà quay sang những người khác- tôi nghe hết, hơ hơ… -ông Chủ tịch Hội cười nhưng mặt lạnh tanh- ông Tạ Duy Anh không ngây thơ thế đâu. Ông ấy bảo không có một từ Cộng sản nào trong cuốn sách thì sao bảo nó chống Cộng. Tôi nói luôn nhé: Nếu có một từ Cộng sản, ông Tạ Duy Anh sẽ chửi cái thằng nhà văn kia là kém, quá kém, không cao tay và ông ấy sẽ không kí biên tập để cho in. Chỉ cần một từ Cộng sản thôi, ông Tạ Duy Anh sẽ không kí cho in.

Ông nhìn lướt mọi người, trừ tôi, có lẽ vì ông không muốn thấy tôi đang cười thầm.

- Nhưng-Hữu Thỉnh tỏ thái độ là ông đi guốc vào bụng tôi- vì không nhắc gì đến Cộng sản, thì giá trị chống Cộng của nó mới cao, nó mới đáng để ông Tạ Duy Anh tìm mọi cách cho in ra. Tôi nói với các anh các chị, không đơn giản chỉ là việc in ra cuốn sách đen ấy, mang vào nhà quả bom bẩn ấy, mà ở đây là cả một kế hoạch, một âm mưu thâm độc, cực kì thâm độc, được cả một tổ chức ém sẵn, nằm im phục kích suốt nửa thế kỷ qua, chính xác là bảy mươi năm qua, lên kịch bản chi tiết, chuẩn bị ròng rã ngày này sang tháng khác để đưa bằng được quả bom bẩn ấy vào cửa nhà chúng ta. Tại sao lại in rất nhanh và nộp lưu chiểu vào sát Tết? Vì thời điểm ấy mọi người đều thiếu tập trung trong công việc? Quá kinh khủng! Quá thâm độc…Những câu hỏi này không dễ trả lời đâu. Một sự tính toán cực kì kĩ, chi tiết, có chỉ đạo, rất kiên nhẫn mai phục.

Bỗng Hữu Thỉnh gần như kêu lên đau đớn, toàn bộ cơ mặt của ông co lại thành từng nếp xô lệch (kẻ nào không tin ông đau đớn thật thì quá là vô cảm!):

- Tôi đau đớn lắm các đồng chí ạ! Tôi đau đớn lắm-có cảm giác tim ông sắp nổ tung-Chó, lợn, gà, ngựa…chúng nó gọi nhau là đồng chí -giọng ông nghẹn lại như sắp khóc- làm sao lại không đau đớn cho được. Chó, lợn cũng xưng hô là đồng chí, giời ôi là giời, còn gì để nói nữa, còn trời đất nào nữa.

(Khi Hữu Thỉnh kêu lên thảm thiết như vậy, tôi nghĩ nhanh trong đầu: Còn có nhiều đứa dưới mức súc vật nó vẫn xoen xoét gọi nhau là đồng chí đấy thôi, bác biết thừa).

Hữu Thỉnh bỗng quát lên, mắt long lanh quét một lượt:

- Chúng nó định làm nhục ai?

Tất nhiên là không ai trả lời ông. Nếu không cố kìm, tôi có thể đã phá lên cười. Có thể hầu hết những người dự họp nghĩ là Hữu Thỉnh đau đớn thật, thành tâm thấy có lỗi với cấp trên, muốn trừng trị thói ngang tàng coi trời bằng vung của tôi và lãnh đạo nhà xuất bản. Nhưng tôi thì biết rõ, cả lần này, Hữu Thỉnh cũng đang vờ diễn. Ông chả coi việc cuốn sách ra đời là cái gì ghê gớm. Nó in đầy ra kia, dưới mọi hình thức, ai muốn đọc lúc nào mà chả có. Vào Google gõ một phát ra cả đống, tải về bao nhiêu chả được! Tất nhiên in ở những chỗ khác và in ở nhà xuất bản Hội nhà văn là hai hiệu ứng khác nhau và ông có dự phần trách nhiệm. Nhưng nó rất vừa phải thôi. Đừng nghĩ là ông đang bóc mẽ tôi để trừng phạt. Ông biết là tôi chả coi danh vọng, bổng lộc, thưởng phạt…là thứ gì ghê gớm. Vả lại trừng phạt tôi không dễ, trong khi đó tiếng xấu sẽ để đời.

Với lại, phải nói thật là Hữu Thỉnh không có tâm địa hại tôi. Ông bắt buộc phải làm thế, trước hết và quan trọng nhất, để vừa lòng những người tin tưởng ông, đồng thời một công đôi việc, tiện thể dằn mặt cái “ổ nhóm” cứng đầu luôn gây cho ông những cơn nhức đầu. Chỉ có điều, rõ ràng là vì hoảng sợ, vì giận quá hóa mất khôn hay vì lý do nào khác, ông đã mất kiểm soát về ngôn từ trong việc lên lớp, chấn chỉnh cấp dưới.

Những gì ông nói về tôi vượt qua cả ý muốn tố giác tội phạm và chỉ có thể gọi là vu cáo trắng trợn, điều chắc chắn sẽ khiến ông hối hận. Nhưng nói thật là tôi không mảy may để bụng, không mảy may trách móc Hữu Thỉnh. Thậm chí tôi thấy có phần thương ông. Có khi nào tôi thấy Hữu Thỉnh bày ra tất cả sự thảm hại, thì chính là lúc ông “bán đứng” tôi. Nó cũng cho thấy ông rất yếu đuối, yếm thế với cấp trên. Người yếu đuối nào cũng đáng thương hơn là đáng trách.

Sau khi chỉ ra chiến thuật “giả ngố” của tôi, để khẳng định một lần nữa sự thành khẩn của mình trong việc nhận sai sót do buông lỏng quản lý, kiên quyết nghiêm trị cấp dưới, Hữu Thỉnh nhấn thêm:

- Nhà xuất bản phải thành thật nhận ra tội lỗi nghiêm trọng của mình -Và ông kết luận- Không thẩm định, xem xét gì nữa. Rành rành ra rồi. Quả bom bẩn rành rành ra rồi. Đánh phá chế độ rành rành ra rồi. Mọi lời nói của các anh các chị đều là bao biện hết. Phải nhận thấy tội của mình. Tội rất nghiêm trọng. Dứt khoát phải như vậy-lần này thì ông liếc nhìn tôi, hạ giọng- Việc kỉ luật ai, hình thức thế nào chưa bàn ở đây, ông Tạ Duy Anh ạ. Hôm nay chúng tôi mới sang nghe và xem các anh thành khẩn đến đâu, chứ chưa có quyết định cụ thể. Chưa.

Ông nuốt khan, dằn và kéo dài giọng, tay chém mạnh xuống:

- Chưa!... Nhưng nhất định phải kỉ luật.


KỲ 6 - ĐƠN GIẢN NHƯ SỰ THẬT

Chẳng có nhóm chống phá nào rình rập tận 70 năm.

Chẳng có bất cứ tổ chức nào đứng ra thuê mướn rồi chống lưng cho việc xuất bản Trại súc vật.

Chẳng có âm mưu thâm độc nào cả.

Chẳng có ai là kẻ chủ mưu.

Chỉ có BA THẰNG chúng tôi tham gia vụ “tày trời” này: Hai ông Nhã Nam và tôi.

Hai ông Nhã Nam là các nhà tư bản, vì thế, mục đích chính của họ là kinh doanh, nói thẳng ra là tiền.

Còn với tôi là quyền được ra đời của một cuốn sách văn học, quyền của độc giả được đọc một cuốn sách văn học, nhất là khi nó lại có giá trị lớn về tư tưởng.

Mọi bí mật về xuất bản cuốn sách, từ khâu đầu đến lúc có quyết định phát hành, được cả ba giữ kín tuyệt đối cho đến phút chót. Và chúng tôi đã thành công.

Sự thật chỉ đơn giản vậy thôi. Nhưng vì nó quá đơn giản, vì thế nó thường khó tin và khó nuốt.

Và nó đây:

Vào một hôm, Nhã Nam chuyển cho tôi bản thảo có tên Trại súc vật. Cầm bản thảo, đầu tiên tôi nhớ ngay đến bài báo mình đọc cách nay đã hơn hai mươi năm. Vì nó khá mỏng nên tôi quyết định thỏa trí tò mò ngay. Tôi mang về nhà, đọc đúng một đêm thì xong. Đọc xong, tôi bắt đầu đọc lời giới thiệu, của một nhà văn Rumani hay Anbani, hay của nước nào đó thuộc Đông Âu, để biết về lai lịch cuốn sách và vì sao nó bị cấm triệt để trong toàn khối xã hội chủ nghĩa.

Cảm nhận đầu tiên và khá dai dẳng của tôi về cuốn sách là vô cùng thích thú. Mặc dù các nhân vật đều là những con vật, nhưng chúng lại xưng hô với nhau là đồng chí, với lời nói, thái độ, tâm trạng hoàn toàn là con người, những kẻ mà tôi biết đã tạo ra bóng tối cho trái đất này và trùm lên cả đất nước mình suốt bao nhiêu năm. Nỗi ấm ức của kẻ bị lừa dối suốt thời tuổi trẻ khiến tôi vừa buồn cười vừa đau đớn. Sao mà cái thế giới lợn, chó, ngựa…kia lại giống với những gì tôi thấy ở thế giới con người đến thế. Nói chung nó khiến tôi cứ suýt xoa reo lên: Tuyệt quá! Đúng quá! Bọn chó chết gây thảm họa là đây chứ đâu.

Thành thật mà nói thì tôi ít thấy sự ám chỉ mang tính chống cộng, như người ta tố cáo, của cuốn sách, hơn là chế nhạo một bộ máy quyền lực thối nát đến tận xương tủy, chung cho mọi chế độ độc tài. Tức là nó có thể là bất cứ chính quyền độc tài nào chứ chẳng riêng gì Hitler hay Stalin.

Tôi thực sự bái phục cô bé dịch giả, khi cô mới chỉ ngoài ba mươi mà dám dịch một cuốn sách khổng lồ về tầm vóc và khó vô cùng về hành ngôn như Trại súc vật. Tôi không biết khi đọc nguyên bản bằng tiếng Anh nó hay đến đâu, nhưng cứ như bản dịch đã thấy quá tuyệt vời. Tôi cứ cười thành tiếng một mình khi đọc bài thơ đã chuyển ngữ của nhân vật tên là Út Em:

"Đồng chí Nã Phá Luân ôi!
Người là hạnh phúc trên đời chẳng sai
Người là bạn kẻ mồ côi
Người là cám bã ở nơi máng thùng
Hồn tôi thiêu đốt bừng bừng
Khi tôi nhìn sững vào trong mắt người
Uy nghiêm mà vẫn thảnh thơi
Như vầng dương đỏ trên trời bao la!
Người là đấng vẫn ban quà
Mà súc sinh cứ mãi là mong thôi:
Ngày ăn hai bữa rốn lồi
Đi nằm thì có rơm tươi rúc vào
Trẻ già lớn bé thế nào
Vào chuồng yên ấm chiêm bao giấc nồng
Nã Phá Luân chẳng mơ mòng
Đồng chí thao thức giắng trông muôn loài
Con tôi lợn sữa thơ ngây
Còn bú chán mới đến ngày bằng ai
Dẫu còn nhỏ tựa cái chai
Hay chày lăn bột quẳng nơi xó nhà
Với Người con học thật thà
Một lòng tin tưởng bao giờ cho nguôi!
Tiếng đầu con éc trên môi:
“Nã Phá Luân” chính tên người chứ ai".

Tôi không thể không liên tưởng tới bài thơ Ca ngợi Stalin củaTố Hữu, đặc biệt là cái câu cuối cùng của bài thơ trong cuốn sách.

"Tiếng đầu con éc trên môi:
“Nã Phá Luân” chính tên người chứ ai".

Chữ "ÉC" không thể tuyệt vời và thâm thúy hơn.

Ý nghĩ trong đầu tôi lúc đọc xong cuốn sách là phải in ra bằng được, với bất cứ giá nào. Phải cho những kẻ nào đó, nhiều nhan nhản, thấy nhục nhã khi đọc xong cuốn sách. Phải khiến họ không yên khi tiếp tục làm những việc nhơ nhuốc với lịch sử. Hơn nữa, không thể có chuyện vô lý khi hầu hết người dân thế giới được đọc, trong khi người Việt thì không.

Hôm sau tôi nhắn cho người của Nhã Nam đến gặp tôi ở Nhà xuất bản. Người của Nhã Nam hỏi ngay là liệu có qua nổi không. Tôi bảo nhất định phải in bằng được, với điều kiện đổi tên tiểu thuyết. George Orwell có thể lọt lưới, chứ Trại súc vật thì e khó. Vì nó quá lộ. Thứ hai, phải bỏ đi bài giới thiệu ở đầu sách. Đó chỉ là quan điểm của một nhà văn nước ngoài thôi. Hãy để cho bạn đọc hiểu theo cách của mình.

Thực ra là tôi nói dối. Bỏ bài giới thiệu đi thì không có bằng chứng bảo là tôi đã biết cuốn sách chống Staline. Cứ cãi nhau sòng phẳng dựa trên văn bản thì quá lắm chỉ hòa cả làng.

Người của Nhã Nam cầm bản thảo về, trong lòng có vẻ khá tâm trạng. Mãi lâu sau mới thấy cậu ta trở lại, với bản thảo đã đổi thành tên Chuyện ở nông trại và cắt đi lời giới thiệu, đúng như tôi yêu cầu. Cái tên Chuyện ở nông trại là do Nhã Nam đặt chứ không phải tôi như nhiều người có nhã ý ngợi ca tôi thông minh. Lúc bấy giờ có nhiều bản dịch Trại súc vật nhưng Nhã Nam chọn bản dịch của An Lý. Tôi không tiện hỏi lý do. Sau này có người bảo tiếc là không chọn bản dịch của một dịch giả nổi tiếng hơn ở Vũng Tầu. Có thể đó là sự thật nhưng tôi thì coi đó là số phận của một cuốn sách. Được vậy cũng là tốt rồi.

Không ngờ nhất là cái tên Chuyện ở nông trại, với tác giả George Orwell, lại dễ dàng lọt qua bộ máy canh gác nhiều tầng, vốn vươn ăng ten đánh hơi “phản động” suốt ngày đêm và giăng ra ở khắp nơi. Đó là chưa kể mạng lưới an ninh văn hóa dày đặc, cắm chân tại những cơ sở có dính dáng đến xuất bản, in ấn. Lại còn cả mạng lưới cộng tác viên nữa, cũng nhiều nhan nhản. Nhưng tất cả đều “mất cảnh giác” để lọt lưới cuốn sách mà họ canh chừng gắt gao nhất. Thế mới biết, để lưu tên tuổi vào trí nhớ bạn đọc khó biết là chừng nào. George Orwell, nhà văn được gán cho tội chống Xô-Viết số một, bị Staline tử hình vắng mặt (nghe nói vậy) lại chẳng hề được biết đến ở những cơ quan chuyên đánh dấu tên các tác giả để đưa vào diện theo dõi đặc biệt. Ngay lập tức tôi làm một bản thẩm định tác phẩm khá kỹ lưỡng. Nội dung của thẩm định đó đại thể như sau (Tôi không thể nhớ nguyên văn):

“Cuốn sách lấy bối cảnh nước Anh đầu thế kỉ 20, với các nhân vật, địa điểm, sự kiện, kể cả bài hát quốc ca đem ra chế nhạo cũng đều của nước Anh, vào thời kì chủ nghĩa tư bản thối nát nhất, từ đó xây dựng nên một câu chuyện ngụ ngôn thú vị, nhằm chế giễu sự chuyên quyền, đạo đức giả của giới chủ tư bản. Tác phẩm có giá trị phê phán và đề cao công bằng, vạch trần thói giả dối của những kẻ nắm trong tay sức mạnh tiền bạc, cấu kết với giới chính trị nhằm chà đạp nhân phẩm của người nghèo.

Đề nghị duyệt in”.

Tôi đem cả bản thảo và tờ thẩm định sang cho ông Trần Quang Quý. Ông quý đọc qua lời thẩm định, nhìn bản thảo thấy nó có vẻ mỏng manh, lại của tác giả nước ngoài, hỏi tôi như thông lệ:

- Có vấn đề gì không?

- Chả có vấn đề gì, chuyện ngụ ngôn Anh Quốc ấy mà.

Ông Quý lật qua vài trang, nhìn vào những cái tên và địa danh phiên âm từ tiếng Anh, rồi đặt bút kí.

Tôi chuyển lại toàn bộ bản thảo và hồ sơ cho Nhã Nam để lấy giấy phép.

Đó là thời gian tôi sống với nhiều cảm xúc nhất mỗi khi đọc bản thảo nào đó. Tôi biết là mình vừa làm xong một việc tày trời, có thể lên giàn hỏa thiêu, nhưng đáng để một biên tập có lương tâm phải làm.

Bẵng đi thời gian dài, khi gặp lại người của Nhã Nam, tôi hỏi thăm xem Trại súc vật ra chưa, sao để lâu thế. Tôi bảo cậu ta thời cơ ngàn năm có một đấy, không có hai nữa đâu, thì cậu ta trả lời là bọn em còn cân nhắc, cũng thấy hơi ghê ghê. Nhìn thái độ của cậu ta thể hiện sự nghiêm trọng, tôi hoàn toàn thông cảm. Vì Nhã Nam là doanh nghiệp tư nhân. Vị thế của doanh nghiệp tư nhân, lại làm công việc kinh doanh có điều kiện, luôn bị theo dõi sít sao, thường là rất thấp. Vì thế, tôi đắn đo khá lâu mới nói khích:

- Chịu trách nhiệm pháp lý là Nhà xuất bản, là anh, thì không sợ, còn nơi chỉ biết in ra như các chú thì lại sợ. Tùy các chú thôi nhưng anh nhắc lại là không còn có cơ hội thứ hai đâu nhé.

Chẳng biết người của Nhã Nam nghĩ gì nhưng sau đó mọi việc vẫn im thin thít.

Lần ấy có hai ông Nhã Nam cùng đi viếng người thân của một cán bộ cơ quan. Trong khi chờ làm lễ truy điệu, chúng tôi lôi nhau ra một chỗ khuất, thảo luận về Trại súc vật. Hai ông Nhã Nam vẫn chần chừ chưa dám đưa in, vì sợ những hệ lụy không lường hết. Tôi bèn nói lại với cả hai là thời cơ chỉ đến một lần thôi. Tôi nói bằng thứ giọng khá gay gắt, lộ rõ sự trách móc. Thật lòng tôi nghĩ, giả sử có quan chức nào đó, do hiếu kì, đọc Trại súc vật, mà họ lại chưa mất hết liêm sỉ, thì họ sẽ xấu hổ, sẽ ngẫm nghĩ và biết đâu mọi sự thay đổi từ đó. Nhưng những ý nghĩ như vậy chỉ thoảng qua thôi. Cái chính với tôi là việc thưởng thức cuốn sách thuộc về di sản văn hóa thế giới, là quyền không thể trì hoãn của bạn đọc Việt và tôi tự thấy có nghĩa vụ đạo đức phải đưa đến cho họ.

Nghe tôi nói, cả hai ông Nhã Nam đều cảm thấy được khích lệ. Bỗng cả ba chúng tôi cùng đặt tay vào nhau rồi nâng lên cao, hô to: “Quyết in! Quyết in!” Tôi thì nhanh miệng bảo thêm: “Đéo sợ!”

Thế là không bàn cãi lăn tăn gì nữa. Ba chúng tôi cứ như là vừa làm nghi lễ thề bồi cảm tử trước trận đánh lớn.

Khoảng vài tuần sau thì sách ra khỏi nhà in. Khi đó là cuối năm, gần tết âm lịch, tôi bảo Nhã Nam chờ nộp lưu chiểu. Đó là thời điểm ở các cơ quan nhà nước không ai còn có tâm trạng nào để làm việc. Mọi người chỉ chờ để liên hoan, bàn chuyện mua sắm và quan trọng nhất là nhận phong bì quà Tết. To nhận to, bé nhận bé, ngay cả bảo vệ quét dọn cũng có quà. Mọi người đều dỏng tai hướng ra ngoài, chờ được mời gọi đi nhận quà. Bất cứ ai từng làm việc trong cơ quan nhà nước sẽ thấy mô tả của tôi vào loại khá tồi. Thực tế cuộc sống sinh động và hấp dẫn hơn nhiều lần. Không khí tiền bạc, lộc lá, biếu xén…khiến mọi người đều háo hức, hỉ hả, rộng lượng, hàm ơn, cảm động, tự hào vì mình may mắn hơn người. Nói chung là không còn tâm trí đâu nghĩ đến công việc, nếu không phải kẻ nào đó dở hơi, ấm đầu hoặc chơi cùn! Sách vở, tài liệu cứ tạm xếp vào kho, chờ ra Tết giải quyết. Có chết ai đâu. Ra Giêng ngày rộng tháng dài, giải quyết cũng chưa muộn. Và cứ phải qua rằm tháng Giêng mới thực sự làm việc trở lại.

Đó cũng là quãng thời gian lưu chiểu vừa đủ theo luật Xuất bản, để có thể phát hành một cách hợp pháp.

Tất cả đều được thực hiện hoàn hảo như kế hoạch CHỈ DO MỘT MÌNH tôi vạch ra.

Tận lúc Trại súc vật gây dư luận ầm ỹ, nhiều người trong cơ quan tôi mới biết nó được Nhà xuất bản Hội nhà văn cấp phép.


XUẤT BẢN TRẠI SÚC VẬT: VÀI LỜI CUỐI

(Chỉ liên quan đến Hữu Thỉnh và tôi)


Hồi kí “Lách qua luật ngầm” dày khoảng 400 trang in, thì có tới 50 trang chân dung Hữu Thỉnh. Những gì bạn đọc vừa thấy về ông, chỉ là một nét rất sơ khai. Ông hấp dẫn, phức tạp, kỳ lạ hơn thế nhiều. Chân dung ông là một phần không thể thiếu của cuốn sách, bởi chính ông đã “vượt qua mọi nỗi sợ hãi” để đưa bằng được tôi về Nhà xuất bản Hội nhà văn, như ông từng làm thế khi nhận Bảo Ninh về báo Văn Nghệ; như ông đã làm thế và hơn thế để cứu Trần Huy Quang khỏi án hình sự mười mươi trong vụ Linh Nghiệm. Biết tôi quyết định về hưu, chính ông cử người thuyết phục tôi ở lại. Tôi tin là ông chân thành.

Nhưng tôi chọn về Ở ẨN tại gia.

Hữu Thỉnh có những ứng xử rất kì lạ, có lẽ chỉ với riêng tôi. Không bao giờ tên tôi được nhắc đến, gắn với sự ra đời của một cuốn sách nào đó, trên tất cả các tờ báo của Hội do ông lãnh đạo. Thậm chí, khi Hội nhà văn Hà Nội dưới thời nhà văn Hồ Anh Thái, tổ chức hội thảo cuốn “Thiên thần sám hối”, và 4 năm sau, khi Viện Văn học tọa đàm cuốn tiểu thuyết “Giã biệt bóng tối” ông đều cho người đến dự, nhưng một dòng tin, trên toàn bộ các ấn phẩm của Hội, thì tuyệt đối không.

Nhưng không dưới 3 lần ông nài nỉ tôi làm hồ sơ để xét Giải thưởng nhà nước. Tất nhiên là tôi từ chối. Không dưới ba lần khác ông mời tôi sang Hội nhận “tài trợ sâu”, tức ở mức cao nhất, cho việc sáng tác. Lần nào ông cũng rào đón “Biết bây giờ chú giầu rồi, không cần vài chục triệu đồng, nhưng đây là tấm lòng của Hội với chú”. Khi tôi lịch sự từ chối, ông vẫn không nản. Lần khác khi mời tôi, ông nói như giãi bày: “Có đứa năm nào cũng đòi tài trợ, nhưng không viết nổi một trang cho tử tế. Chú chả nhận gì thì cứ ra sách gây sóng gió ầm ầm. Không thể bất công thế được”.

Hoặc một lần ông gọi cho tôi, nói là ông rất cô độc, muốn mời tôi đi ăn tối và “chỉ hai anh em”. Nhưng đó lại là lần ông khiến tôi ê chề. Thậm chí nếu không phải là tôi, mà là ai khác, có thể họ sẽ tổn thương và hận, tránh xa Hữu Thỉnh đến lúc chết!

Mỗi lẫn ra sách, tôi đều mang tặng ông. Nhưng một lần, đúng vào lúc ông đang bức xúc với tôi liên quan đến cuốn sách của ông Nguyễn Trần Bạt, khi tôi đưa tặng ông cuốn sách mỏng, ngay trước mắt tôi, ông liệng một phát vào cái đống sách tặng to lù lù ở góc phòng làm việc của ông mà tôi tin không bao giờ ông sờ tới. Kể từ bấy tôi không bao giờ tặng sách ông nữa. Nhưng bi kịch ở chỗ, dù không tặng, nhưng những cuốn sách sau này của tôi ông đều PHẢI đọc. Sự thật thì không một cuốn sách nào của tôi ra đời lại không khiến ông bị liên lụy. Ông đã “mệt muốn chết” -lời ông- trong vụ tiểu thuyết “Đi tìm nhân vật” của tôi. Ông “mệt bã người” -cũng lời ông- trong vụ Mối chúa…

Nhưng chuyện này mới cho thấy sự phức tạp của Hữu Thỉnh. Trong phần tôi viết về chân dung ông, có một đoạn thế này:

“Hữu Thỉnh chỉ thờ ơ, không quan tâm đến những người thực lòng yêu quý ông, sống quân tử với ông. Ông thờ ơ nhưng trong lòng thì kính nể. Ông thờ ơ không phải vì ông thiếu tình người, mà vì ông không bị bức bách phải lo về họ. Ông biết dù ông có làm gì họ thì họ cũng không hại ông. Trong khi đó những kẻ bu lấy ông hàng ngày, nịnh bợ ông bằng những lời lẽ khiến ai cũng phải phát ngượng, luôn được ông ban lộc lá (ông dùng thẳng từ THÍ CHO, “Thí cho nó cái giải thưởng”), trở thành thân cận, thì với ông thực chất chỉ đáng là thứ giẻ lau chân .Trên thực tế, đó cũng là những người mà ông tuyệt đối canh chừng cảnh giác, coi như rắn độc. Đáng phải cảnh giác bởi vì họ bất tài mà lại háo danh, háo lợi, sẵn sàng tráo trở khi có món lợi lớn hơn. Ông biết hết và ông biết cả cách dùng họ vào việc gì”.

Một lần ông sang NXB dự lễ tổng kết cuối năm gì đó. Rượu ngà ngà, tôi bảo với ông là tôi viết về ông. Ông háo hức hỏi: “Thế à?” Tôi hỏi: “Bác có muốn nghe một đoạn không?” Ông bảo: “Tốt”.

Và ông vào phòng tôi, nghe tôi đọc cái đoạn vừa trích ở trên. Đang nghe ông bắt tôi dừng lại, xua tay:

- Chú sai. Không phải “giẻ lau chân”, mà là…LAU ĐÍT.

Suốt đời Hữu Thỉnh có một nỗi sợ mà tôi tạm gọi là SỢ CẤP TRÊN NGHI NGỜ.

Không bao giờ tôi chọn hoặc chấp nhận sống như ông.

Nhưng bạn muốn phán xét về ông, cũng như tôi muốn làm điều đó, hoàn toàn không dễ.

Tôi là người ngay thẳng, sòng phẳng và công bằng. Với tôi mỗi người đều phải chịu trách nhiệm của mình trước lịch sử, về những việc mình làm. Vì thế, bạn hãy chờ đọc toàn bộ 50 trang tôi viết chân dung Hữu Thỉnh, hãy bày tỏ ý kiến của mình về ông, nếu bạn thật lòng tin vào ngòi bút của tôi.

Giờ chưa phải lúc. Giờ là lúc chúng ta quay lại đoạn kết của câu chuyện về xuất bản Trại súc vật.

Trung Trung Đỉnh và Trần Quang Quý bị Hội nhà văn cảnh cáo, không xét tăng lương một năm (khi hai ông đều kịch khung lương từ lâu). Nhận thông báo, Trung Trung Đỉnh cười như vớ được hoa hậu, còn Trần Quang Quý cũng cười nhưng kèm câu chửi thề.

Hội nhà văn giao cho Nhà xuất bản quyết định hình thức kỉ luật tôi. Gặp tôi, Trung Trung Đỉnh bảo: “Lão Thỉnh đá quả bóng xử lý mày sang cho tao, tao đéo dại nhé. Dại gì động vào chú. Nhỡ chú thành nhân vật lịch sử thì bỏ mẹ anh hà hà…Hội thích thì cứ chơi thẳng”.

Rồi cười tít mắt.

Chờ mãi không thấy NXB báo cáo hình thức kỉ luật tôi, Hội vài lần thúc giục. Nhưng lãnh đạo NXB vẫn cứ “ì” ra, khiến cũng có một số người hậm hực, nóng mắt. Nhưng rồi chả thấy ai nói đến nữa.

Vốn đã ít gặp nhau, sau vụ Trại súc vật, Hữu Thỉnh và tôi gần như tuyệt giao. Nghe nói cứ ai vô tình nhắc đến tên tôi là ông lại giận sôi lên, coi tôi là nguyên nhân của biết bao rắc rối mà ông phải chịu lây. Tôi thì đương nhiên là bất cần. Ông muốn làm gì tôi để đẹp lòng cấp trên thì cứ làm.

Cũng có vài lần bất đắc dĩ chúng tôi chạm mặt nhau khi họp về sách dự án. Nhưng hoặc là tôi chủ động lảng đi, hoặc là ông không thèm nhìn mặt tôi. Họp xong tôi về luôn, không chào bất cứ ai.

Chắc lần này thì cạch mặt nhau đến chết.

Nhưng hóa ra Hữu Thỉnh vẫn luôn khiến người khác bất ngờ. Trong một dịp tổng kết cuối năm, khi vết thương tai nạn do Trại súc vật gây ra đã liền miệng (nhưng không bao giờ lành hẳn), Hữu Thỉnh -trái với lời thề không bao giờ sang Nhà xuất bản nữa để lại phải thấy mặt chúng tôi- đã nhận lời mời của Trung Trung Đỉnh, dự bữa cơm liên hoan. Có lẽ ông muốn chứng tỏ, miệng ông nói thế nhưng lòng ông không thế.

Lúc ông từ trên xe bước xuống thì tôi đang đứng trước cổng Nhà xuất bản. Tôi cố ý quay mặt đi để ông khỏi bị làm khó và cũng do tôi không thấy có nghĩa vụ phải làm lành với ông. Tôi sẽ chờ ông đi qua rồi mới quay lại. Nhưng hóa ra ông nhìn thấy tôi từ khi còn ở trong xe. Ông chứng kiến toàn bộ hành động của tôi. Vì thế, ông đến đứng phía sau tôi, dùng hai tay đặt lên vai tôi xoay mạnh người tôi lại. Mặt chạm mặt, ông nhìn sâu vào mắt tôi, như nhìn một thằng em ngốc, dứ dứ ngón trỏ, cười rất thân thiện. Tay kia ông lần tay tôi, bóp chặt:

- Chú em sao định tránh anh? Tao chưa thấy đứa nào dốt như mày. Sao mày lại giận anh nhỉ? Anh Thỉnh đã làm gì chú? Anh Thỉnh dọa đánh chú nhưng đã đánh chưa? Người ta bảo giơ cao đánh khẽ, nhưng ngay cả giơ roi với chú anh Thỉnh cũng chưa? Hớ hớ…

Nói rồi, ông quay sang mọi người cười to, ý muốn bảo, các vị xem, tôi đã làm gì nó mà nó giận tôi.

Ông lại lắc tay tôi một cái, bóp mạnh hơn như ra ám hiệu: “Xong. Tôi với chú vẫn là anh em”.

Thành thật thì chính tôi cũng không hiểu vì sao Hữu Thỉnh vẫn quý tôi, sau những gì phiền muộn mà tôi gây cho ông. Lúc nào người ta cũng nhắc ông phải làm gì đó mạnh tay với tôi (Kỉ luật, đưa khỏi Nhà xuất bản…) nhưng ông đã tìm mọi cách để lờ những yêu cầu đó đi. Thậm chí ông còn đấu lại thẳng thừng.

Như trường hợp một cán bộ của một Ban “quan trọng” nào đó cứ nhân danh Ban liên tục ép Hữu Thỉnh phải bằng cách nào đó đưa tôi đi khỏi Nhà xuất bản Hội nhà văn. Lúc đầu ông cũng à ừ cho qua. Nhưng rồi cứ bị ép quá, một lần Hữu Thỉnh gay gắt hỏi lại: “Ông bày cho tôi cách làm việc đó đi. Áp cho Tạ Duy Anh tội gì để thực hiện việc đó. Phải gọi được ra tội chứ. Nói mồm với nhau thì nói gì chả được. Muốn đưa Tạ Duy Anh đi khỏi NXB mà không thể viện ra được lý do, không đủ căn cứ pháp lý thì ít ra cũng phải có nơi nào cho ông ta và phải xem ông ta có đồng ý không? Đừng đùa!”

Khi kể lại với tôi chuyện đó trong một bữa trưa với chủ ý dàn hòa, tôi hỏi ông:

-Thằng cha đó là ai hả anh?

Ông gạt đi:

- Chú quan tâm làm gì?

- Chỉ là em muốn biết vì sao ông ta lại ghét em đến thế. Em hỏi thôi, không có ý thù hận gì đâu, tính em anh biết mà.

- Tôi chỉ nhớ nó tên là T., vụ phó gì đó. Mà chú để tâm làm gì.

Rồi, vừa trả lời tin nhắn ai đó, Hữu Thỉnh nói như tôi không hề có mặt:

- NÓ KHÔNG ĐÁNG RỬA CHÂN CHO THẰNG TẠ DUY ANH.

Tạ Duy Anh