Nguyễn Hậu
Sài Gòn xưa thật đẹp, văn minh và thanh bình với những con người hiền lành, mộ đạo. Nếu không có những bức ảnh tư liệu mà mỗi ngày càng được người ta chia sẻ càng nhiều, không có hàng ngàn những bản thu âm trước 1975 về dòng nhạc trữ tình Sài Gòn đã một thời lên tới đỉnh cao của văn hóa/ nghệ thuật, rồi các kiệt tác văn chương… những người sau này ắt hẳn chẳng bao giờ tin vào điều đó – Hòn ngọc Viễn Đông – vì sách giáo khoa không nói như vậy.
Tôi đến với mảnh đất này với tâm thế của một người hiền lành và tôi cũng nhanh chóng nhận ra mình chưa đủ tử tế và hiền như Sài Gòn. Tôi tri ân Sài Gòn như đất mẹ thứ hai đã cho tôi biết bao điều tốt đẹp, đã dung dưỡng và trao cho tôi những điều thật tử tế. Tôi đến và ở lại Sài Gòn không chỉ vì mưu sinh, một ước mơ ngông cuồng nữa mà vì tôi yêu, tôi thấy mình thuộc về mảnh đất này. (Cũng có thể vì ngay từ bé tôi đã thuộc và có thể say sưa đàn hát cả trăm bài bolero, tiền chiến…, ắt đó là duyên. Và cả những mơ mộng vẩn vơ của tôi về một Chiều mưa biên giới anh đi về đâu, Em tôi đi đường lên Catinat… ảnh hưởng từ bố ).
Tôi cũng biết nhiều người xứ tôi đã làm cho Sài Gòn dữ và biến dạng đi từng ngày. Tôi chỉ có tâm nguyện một ngày còn ở lại nơi này là một ngày gieo xuống những hạt mầm lành, gieo xuống sự tử tế và gìn giữ những hạt mầm tử tế còn sót lại… Tôi chỉ là một tay Bắc Kỳ lạc thời, tơ tưởng và hướng đến cái đẹp và sự tử tế. Tôi tin vào những giá trị bền vững theo thời gian và trên con đường ngược chiều ấy tôi tìm thấy hay nói đúng hơn là nhận ra những người cũng ấp ôm một điều tốt đẹp nào đó cũng đang cố gắng đi ngược chiều đồng loại. Tôi nhớ hoài một câu nói của người bạn đời của mình: Đêm hỗn mang thắp hỏa châu đi tìm bộ lạc… Có lần một người bạn Sài Gòn mà tôi rất quý mến nói “anh thật sự là một người Sài Gòn”, với tôi, đó là lời khen tặng mà tôi trân trọng vô ngần và có thể nói là hãnh diện nhất (Có lẽ là không xấu hổ với những tiền bối đến đây từ những năm 54 và rất được người Sài Gòn yêu mến).
Nói về Sài Gòn thì một chữ yêu không đủ, có điều gì đấy ngọt ngào và mặn đắng hơn thế trong tim tôi, mỗi ngày đi qua những con đường lộng gió, những “con đường tình ta đi nắng vàng tươi đẹp đẽ…” Dù nó không còn tinh khôi như đã từng nhưng chỉ cần tôi tin vào sự tinh khôi ấy, bằng trái tim nhỏ bé thật hiền, bằng cách góp mỗi bước chân nhẹ nhàng, góp tiếng nói nhỏ nhẹ không tục tĩu chửi bới chém gió ồn ào gây ô trọc, bần tiện hóa lối sống, tôi tin hơi thở của Sài Gòn vẫn sống mãnh liệt.
Sài Gòn hiền là thế nhưng nơi này đã không còn là nơi bao dung, để ai cũng có quyền đến, kiếm ăn, bú mút nhưng vẫn ngoạc mồm chê bai “đồ ăn dở, không có mùa đông, không có Tết” và mang theo những hạt mầm hủy hoại. Sài Gòn đã khắc nghiệt hơn, đã biết thải bớt người.
Những người yêu Sài Gòn đã tìm thấy nhau, dần dần, từng nhóm nhỏ. Họ cùng chọn một cách sống thật lành, nghe những bản tình ca cũ, nâng niu những nét đẹp còn sót lại và dù họ đến từ đâu, tôi tin Sài Gòn cũng ôm họ vào lòng, như đã từng.
Có người nói tôi yêu Sài Gòn như thế tức là tôi “có vấn đề với chính trị”. Với tôi, đó thuần túy là vấn đề Thẩm Mỹ, sâu xa hơn là cái Đạo. Chính trị là trò chơi phe phái của người lớn – thứ trò chơi mà tôi rất ghét. Tôi chọn là đứa trẻ con trong cái thế giới nho nhỏ cùng vài món đồ chơi dễ thương. Thế giới nho nhỏ mà tôi chỉ còn nghe thấy những lời Ái Ngữ.
Một mùa Giáng Sinh nữa đang đến, xứ đạo Sài Gòn bắt đầu rộn rã trang hoàng. Tôi chuyển nhà về gần nhà thờ Tân Định, chiều chiều được nghe tiếng chuông vẳng đến, xuống đường thấy ngay những cửa hàng bán đồ trang trí Giáng Sinh. Trong căn phòng nhỏ của mình, tôi và vợ nghe những ca khúc thật xúc động của băng nhạc Sơn Ca 3. Tôi mở nhiều đĩa nhạc Giáng sinh kinh điển của thế giới và thật tự hào vì Việt Nam đã từng tạo nên một băng nhạc Giáng Sinh tuyệt vời đến thế. Dẫu Sơn Ca 3 thấp thoáng toàn chia ly, tang tóc của thời ly loạn nhưng hơn hết đó là khát vọng hòa bình, tình yêu và mong cho mọi người Việt Nam đều thương nhau. Nếu nói về dòng nhạc phản chiến tại Việt Nam, có lẽ tôi thích Sơn Ca 3 hơn tuyển tập ca khúc Da Vàng của ông Trịnh.
Những người tình học trò thời ấy đã bỏ lại sau lưng bao mùa Giáng Sinh và bao nhiêu giọt lệ của người yêu? Những lời khấn nguyện về mùa Giáng Sinh chiến tranh ấy vẫn còn được vang lên khắp hang cùng ngõ hẻm không chỉ Sài Gòn. Nếu chỉ được phép lựa chọn một đia nhạc phản chiến trong tủ đĩa của mình, tôi chỉ chọn Sơn Ca 3, không phải Bob Dylan, Joan Baez, John Lennon hay bất cứ vĩ nhân nào.
Ngày tháng trôi đi qua mau
Mùa sao sáng năm nào
Giờ cũng Noel một mình em thẫn thờ
Quỳ bên hang đá nguyện cầu
Một người chân mây gió
Được sống gần nhau
….
Từ khắp muôn phương lòng thành đang hướng về
Mừng Chúa ngôi hai giáng sinh trên trời cao
Nguyện cầu yên bình nhân thế
Giữ vững tin yêu trọn đời
Bài thánh ca ngọt đầu môi
Quê hương chinh chiến đã lâu rồi
Người ngoài biên cương vẫn miệt mài đi
Mấy mùa Giáng sinh niềm nhớ bâng khuâng tìm về
Hòa theo khúc nhạc mừng Chúa sinh ra đời
……
Lạy Chúa mùa Giáng Sinh xưa
ngày đầu vướng yêu đương
Người ấy hứa với con rằng
Tan mùa chiến chinh
Ngày đó anh về kết đôi
Nhưng từng đêm chiếc lá lìa ngàn
Đêm từng đêm giấc mơ kinh hoàng
Nhân loại còn ngủ say
bên những kiếp người quê hương đọa đày
Ôi đêm thánh vô cùng
lời thương rền khắp muôn trùng
Người mau về đi ! đừng gieo biệt ly!
từng hồi chuông nửa đêm sầu bi
Chiến cuộc mấy mươi năm
mệnh trời bắt gian truân
Lạy Chúa chinh chiến lâu rồi
cho mùa Giáng Sinh này đến Thanh bình Chúa ơi!
Lạy Chúa chinh chiến lâu rồi
cho người núi sông rũ áo tang bồng Chúa ơi!
Một thoáng Sài Gòn
Đồng Khởi. Chắc chắn đó không phải là con đường lớn nhất, nhưng cho đến giờ nó vẫn là con đường đặc sắc nhất của Sài Gòn. Mười năm qua, kiến trúc Vinagothic đã biến thành kiến trúc sang trọng kiểu tân Đông Dương. Giữa thập kỷ 90, tôi chẳng có lý do nào khác để đi đến khu Đồng Khởi, ngọai trừ để hồi tưởng lại quang cảnh trước kia, con phố nơi các cư dân thanh lịch của thập kỷ 50 thường đi dạo trong bộ cánh bảnh nhất của họ, hoặc ở các quán café nhạc R&R vào thời chiến. Bây giờ tôi vẫn còn có thể tìm thấy những ngôi nhà xây theo kiểu gothic, và khu phố trung tâm cũ mèm, nhưng tôi phải rất để ý tìm. Đây đó vẫn còn đu đưa những biển hiệu cổ kính, cong vênh theo thời gian, hoặc những lớp mạng nhện phủ đầy bụi suốt mấy thập kỷ giăng lặng lẽ ở lối vào của vài chung cư cũ thời Pháp thuộc. Đó mới là khu Đồng Khởi mà tôi quen thuộc ngày đầu. Tôi vẫn thích viếng thăm khu ấy, trong những lần ghé vào nhà sách Fahasa hoặc đến các quán cafe sang trọng.
Nếu tôi có điều gì hối tiếc, thì đó là không lường trước những gì sẽ xảy ra, và đã không ghi lại thật nhiều hình ảnh của Sài Gòn xưa cũ, của từng tòa nhà cổ. Đáng lẽ tôi phải biết chuyện đó. Năm 1996-1997, một loạt các công trình xây dựng trước khi cuộc khủng hỏang châu Á xảy ra. Đột nhiên một số tòa nhà tôi yêu thích biến mất. Tôi chỉ còn lại hoài niệm về những gì đã mất để tự an ủi mình – khu chung cư Pháp thuộc cũ nát ở nơi hiện nay là Saigon Center hoặc những ngôi biệt thự kiểu Pháp, bóng ma kiến trúc Saigon Square. Đồng Khởi biến thành công trình xây dựng và nơi ở trước kia của Gramham Greene trở thành cát bụi dưới những nhát búa máy. Tôi có những người bạn vẫn thích ngồi trên những chiếc ghế thấp lè tè ở quán Bố Già để nhấm nháp một ly cà phê vỉa hè. Để ngắm cái gì? Showroom xe máy của hãng Yamaha? Phải chi họ biết.
Đêm Giáng Sinh 1993, chúng tôi ngồi bên vỉa hè uống bia với một số khách trọ khác trong khách sạn. Một cặp vợ chồng Việt kiều, chủ một doanh nghiệp nhỏ, than phiền vì không tìm được nhân viên văn phòng phù hợp. Chẳng có người Việt nào đủ kỹ năng cần thiết. Họ sẵn lòng tuyển người ngọai quốc, nếu tìm được ai đó rành tiếng Việt.
Mới đây mà mọi chuyện đã khác. Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều người Việt đủ kiến thức chuyên môn. Các công ty nước ngoài cũng không cần tuyển nhân viên quản lý cấp trung nữa. Dù sao cũng chẳng có mấy người nước ngoài biết nói tiếng Việt. Trong thập kỷ vừa qua, các công trình xây dựng ở khu trung tâm xuất hiện như nấm mọc sau mưa. Giờ đây chúng ta sống dưới bóng của các tòa nhà ấy, dù ở khu đô thị Nam Sài Gòn đang xây, hay ở các quán café trữ tình trên bán đảo Thanh Đa. Vật tổ của tôn giáo kinh doanh đang không ngừng biến chuyển thành phố này thành một trung tâm kinh tế vây quanh bởi các đô thị vệ tinh. Trong tương lai, các dãy nhà cửa hàng dọc theo đường Lê Lợi sẽ bị san phẳng. Dân cư sẽ không sống ở khu trung tâm nữa. Điều này có thể hình dung được, dù đó không phải là cung cách của người Việt Nam. Cùng với quá trình doanh nghiệp hóa thành phố là sự thay đổi tinh tế trong nhận thức về thời gian. Thời gian sẽ bị quản lý chặt chẽ bởi kế họach, lịch biểu chứ không còn tùy hứng. Con người sẽ sống và làm việc vì tương lai. Sớm muộn gì lối sống đó cũng sẽ lan truyền khắp thành phố, và thời gian ở Sài Gòn cũng sẽ giống như thời gian ở bất kỳ nơi nào khác trên thế giới.
Một đêm tôi về nhà muộn sau chuyến đi Campuchia. Việc đầu tiên tôi làm theo sự thôi thúc là leo lên ban công tầng ba để tưới cây. Đã gần nửa đêm. Đâu đó trong hẻm vẳng lại tiếng lóc cóc của cậu bé bán mì xực tắc và tiếng lạch xạch của người đấm bóp dạo, âm thanh quyện vào nhau như trong một dàn nhạc gõ. Từ căn nhà gần đó vọng lại một giọng ca cải lương uể ỏai. Trời lặng gió và không khí lạnh dần. Tôi thấy được hạnh phúc vì được trở về nhà.
Tôi sống trong căn nhà này mới được một năm. Phải mất một thời gian tôi mới nhớ đường đi lối lại trong khu phố. Nhưng bây giờ tôi biết rõ khu phố cũng như biết rõ những ngừơi hàng xóm láng giềng. tôi biết những người bán dạo đạp xe qua con hẻm bao lần mỗi ngày. Mỗi tối lại có một cô bé với giọng rao ngọt như đường. Một ca sĩ hát khiêm nhường. Sau nhiều tháng, tôi mới hiểu được lời rao của cô qua giọng rao kéo dài và biết cô bán thứ gì. Giọng cô trở nên quen thuộc với tôi, như giọng nói bạn bè, mặc dù tôi chưa một lần nhìn thấy cô. Không xa nơi tôi ở, những căn nhà dọc theo con kênh đang bị giải tỏa để xây đường cao tốc. Tôi tự hỏi không biết thứ tiếng ồn ào và thứ ô nhiễm nào sẽ đếm cùng với con đường ấy, và hy vọng tiếng ca cải lương sẽ ở lại với tôi lâu hơn.
Những hậu quả của mười năm phát triển rầm rộ cuối cùng cũng đã lộ diện. Con rồng thịnh vượng bắt đầu gặm đuôi chính mình. Đáp lại cuộc khủng hỏang đô thị sẽ làm cả thành phố tê liệt nếu không được xử lý thích đáng là một lọat các con đường mới mở, các cây cầu mới xây, đường phố phân làn xe, luật giao thông mới, hạn chế xe gắn máy, và các panô quảng cáo xe bus công cộng. Hợp lý hóa. Kỷ luật. Đô thị sạch đẹp. Chúng ta đều biết điều đó là cần thiết.
Sài Gòn đang thay da đổi thịt. Đây không phải là lần đầu tiên điều này xảy ra, nhưng tôi có cảm giác chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi mang tính lịch sử. Quá trình đô thị hóa đang diễn ra ở các làng hoa, các khu vườn trồng rau và cây trái. Con kênh nối liền Sài Gòn – Chợ Lớn với những kho hàng kiểu thế kỷ XIX, những xà lan lớn chở đầy cát, chuối, hoặc hàng chồng ghế nhựa đã không còn như xưa với sáu làn giao thông ầm ào. Con kênh ấy sẽ không bao giờ như xưa nữa. Cùng với làn nước đen quánh như mực, việc vận tải buôn bán trên dòng kênh, những họat động đặc trưng của thành phố suốt ba trăm năm qua, cũng sẽ biến mất. Những người bán dạo sẽ bị cấm vào khu trung tâm thành phố mà phải tập trung ở những khu bán hàng rong để tránh làm mất trật tự cảnh quan đô thị. Lối sống tiền công nghiệp chẳng mấy chốc sẽ biến mất khi Sài Gòn tự ép mình vào thời gian và trật tự của một xã hội hậu công nghiệp. Và cuối cùng quá khứ sẽ lặng lẽ khép mình trong các bảo tàng, các văn khố lưu trữ và các bộ phim truyền hình.
Trong khi đó, tôi muốn thưởng thức trọn vẹn những gì Sài Gòn đang trao tặng. Tôi vẫn có thể thích thú ngắm nhìn những anh chàng điển trai trên những chiếc xe gắn máy với mái tóc đen dày cắt theo kiểu thập niên 30. Tôi vẫn có thể bước ra khỏi nhà bất cứ ngày nào trong tuần và được chào đón bởi một dàn hợp xướng lạc điệu của các giọng nói lanh lảnh. Ngôn từ kéo dài như kẹo cao su. Mềm ra. Tan chảy ra. Cái thứ giọng Sài Gòn đặc trưng với khuynh hướng biến mọi phụ âm thành bán nguyên âm y (Chúng ta đang sống ở đâu? “Yiệc Nam”). Bất cứ buổi tối nào, mùa nào cũng vậy, tôi vẫn có thể đi ra đường với T-shirt và quần short, rồi lái xe trên đường Trần Hưng Đạo trong tiếng động cơ gầm gừ ở mỗi ngã tư có đèn xanh đỏ. Đó là con đường dạo mát yêu thích của tôi, con đường rộng đưa tôi đến thẳng trung tâm Chợ Lớn. Nơi đó tôi có thể khám phá những con hẻm nhỏ bí mật và những ngôi nhà cũ kỹ như trong chuyện cổ tích. Trên đường về nhà, tôi vẫn có thể nhăn mũi vì mùi sầu riêng bán trên vỉa hè, họăc nheo mắt vì ánh điện rực rỡ hắt ra từ các cửa hàng bán bánh Trung thu với những hộp bánh đỏ tươi in chữ mạ vàng.
Hoặc tôi có thể thả mình thóat khỏi mọi quy luật không gian và thời gian. Cứ thể lao lên xe máy mà chạy. Không định hướng. Ngắm các tòa nhà hai bên đường. Đi cho đến tận cùng một con phố chỉ để biết nó chạy đến đâu. Hoặc ngồi trong một quán sân vườn nhấm nháp cà phê suốt buổi sang, sau đó lững thững đi ăn trưa rồi làm một giấc ngủ dài suốt buổi chiều, như một kẻ vô công rỗi việc thực thụ. Rồi buổi tối, sao lại không tìm đến một quán bar trên đường Phạm Ngũ Lão để xem mấy cậu choai choai vặn vẹo cơ thể thao điệu nhạc, trong khi các khách du lịch đứng tuổi, không còn trẻ để mà quan tâm đến âm nhạc nữa, cũng vỗ tay tán thưởng trong tâm trạng phấn khích. Họ cùng chia sẻ bầu không khí vì ở đây không có thái độ thờ ơ, lãnh đạm. Ít ra là chưa.
Năm 1971, trong bản thảo cuốn Vietnam Inc, Philip Jones Griffiths có một nhận xét rất xác đáng về sinh lực tinh thần lưu truyền của người Việt Nam. Bất chấp giai đọan khó khăn kéo dài suôt 3 thập niên vừa qua, sức sống ấy vẫn còn đó, và tôi tin rằng sẽ mãi mãi tồn tại với Việt Nam. Sức sống đó khác với sức sống của bất kỳ thành phố lớn nào trong xã hội phương Tây, khác với sức sống ở bất cứ nơi nào trên lục địa châu Á. Như những chiếc xe gắn máy chạy trong các mạch máu giao thông, sinh lực ất là nguồn nhựa sống của thành phố. Nó không ngừng sôi sục và mê hoặc những ai cảm nhận được vẻ đẹp của nó. Hơn bất cứ lý do nào khác, tôi tin rằng sức sống này chính là điều đã giữ chân tôi lại nơi này suốt mười mấy năm qua. Và chừng nào đó còn hiện diện trong cuộc sống quanh tôi, tôi sẽ còn ở lại đây. Không gì khác có thể thay đổi tình yêu của tôi dành cho thành phố này, bất kể những thay đổi diễn ra đối với diện mạo của nó cũng như lối sống của người dân mà sự phát triển và thịnh vượng kinh tế sẽ đem lại. Chúc Sài Gòn may mắn.
Sài Gòn xưa thật đẹp, văn minh và thanh bình với những con người hiền lành, mộ đạo. Nếu không có những bức ảnh tư liệu mà mỗi ngày càng được người ta chia sẻ càng nhiều, không có hàng ngàn những bản thu âm trước 1975 về dòng nhạc trữ tình Sài Gòn đã một thời lên tới đỉnh cao của văn hóa/ nghệ thuật, rồi các kiệt tác văn chương… những người sau này ắt hẳn chẳng bao giờ tin vào điều đó – Hòn ngọc Viễn Đông – vì sách giáo khoa không nói như vậy.
Tôi đến với mảnh đất này với tâm thế của một người hiền lành và tôi cũng nhanh chóng nhận ra mình chưa đủ tử tế và hiền như Sài Gòn. Tôi tri ân Sài Gòn như đất mẹ thứ hai đã cho tôi biết bao điều tốt đẹp, đã dung dưỡng và trao cho tôi những điều thật tử tế. Tôi đến và ở lại Sài Gòn không chỉ vì mưu sinh, một ước mơ ngông cuồng nữa mà vì tôi yêu, tôi thấy mình thuộc về mảnh đất này. (Cũng có thể vì ngay từ bé tôi đã thuộc và có thể say sưa đàn hát cả trăm bài bolero, tiền chiến…, ắt đó là duyên. Và cả những mơ mộng vẩn vơ của tôi về một Chiều mưa biên giới anh đi về đâu, Em tôi đi đường lên Catinat… ảnh hưởng từ bố ).
Tôi cũng biết nhiều người xứ tôi đã làm cho Sài Gòn dữ và biến dạng đi từng ngày. Tôi chỉ có tâm nguyện một ngày còn ở lại nơi này là một ngày gieo xuống những hạt mầm lành, gieo xuống sự tử tế và gìn giữ những hạt mầm tử tế còn sót lại… Tôi chỉ là một tay Bắc Kỳ lạc thời, tơ tưởng và hướng đến cái đẹp và sự tử tế. Tôi tin vào những giá trị bền vững theo thời gian và trên con đường ngược chiều ấy tôi tìm thấy hay nói đúng hơn là nhận ra những người cũng ấp ôm một điều tốt đẹp nào đó cũng đang cố gắng đi ngược chiều đồng loại. Tôi nhớ hoài một câu nói của người bạn đời của mình: Đêm hỗn mang thắp hỏa châu đi tìm bộ lạc… Có lần một người bạn Sài Gòn mà tôi rất quý mến nói “anh thật sự là một người Sài Gòn”, với tôi, đó là lời khen tặng mà tôi trân trọng vô ngần và có thể nói là hãnh diện nhất (Có lẽ là không xấu hổ với những tiền bối đến đây từ những năm 54 và rất được người Sài Gòn yêu mến).
Nói về Sài Gòn thì một chữ yêu không đủ, có điều gì đấy ngọt ngào và mặn đắng hơn thế trong tim tôi, mỗi ngày đi qua những con đường lộng gió, những “con đường tình ta đi nắng vàng tươi đẹp đẽ…” Dù nó không còn tinh khôi như đã từng nhưng chỉ cần tôi tin vào sự tinh khôi ấy, bằng trái tim nhỏ bé thật hiền, bằng cách góp mỗi bước chân nhẹ nhàng, góp tiếng nói nhỏ nhẹ không tục tĩu chửi bới chém gió ồn ào gây ô trọc, bần tiện hóa lối sống, tôi tin hơi thở của Sài Gòn vẫn sống mãnh liệt.
Sài Gòn hiền là thế nhưng nơi này đã không còn là nơi bao dung, để ai cũng có quyền đến, kiếm ăn, bú mút nhưng vẫn ngoạc mồm chê bai “đồ ăn dở, không có mùa đông, không có Tết” và mang theo những hạt mầm hủy hoại. Sài Gòn đã khắc nghiệt hơn, đã biết thải bớt người.
Những người yêu Sài Gòn đã tìm thấy nhau, dần dần, từng nhóm nhỏ. Họ cùng chọn một cách sống thật lành, nghe những bản tình ca cũ, nâng niu những nét đẹp còn sót lại và dù họ đến từ đâu, tôi tin Sài Gòn cũng ôm họ vào lòng, như đã từng.
Có người nói tôi yêu Sài Gòn như thế tức là tôi “có vấn đề với chính trị”. Với tôi, đó thuần túy là vấn đề Thẩm Mỹ, sâu xa hơn là cái Đạo. Chính trị là trò chơi phe phái của người lớn – thứ trò chơi mà tôi rất ghét. Tôi chọn là đứa trẻ con trong cái thế giới nho nhỏ cùng vài món đồ chơi dễ thương. Thế giới nho nhỏ mà tôi chỉ còn nghe thấy những lời Ái Ngữ.
Một mùa Giáng Sinh nữa đang đến, xứ đạo Sài Gòn bắt đầu rộn rã trang hoàng. Tôi chuyển nhà về gần nhà thờ Tân Định, chiều chiều được nghe tiếng chuông vẳng đến, xuống đường thấy ngay những cửa hàng bán đồ trang trí Giáng Sinh. Trong căn phòng nhỏ của mình, tôi và vợ nghe những ca khúc thật xúc động của băng nhạc Sơn Ca 3. Tôi mở nhiều đĩa nhạc Giáng sinh kinh điển của thế giới và thật tự hào vì Việt Nam đã từng tạo nên một băng nhạc Giáng Sinh tuyệt vời đến thế. Dẫu Sơn Ca 3 thấp thoáng toàn chia ly, tang tóc của thời ly loạn nhưng hơn hết đó là khát vọng hòa bình, tình yêu và mong cho mọi người Việt Nam đều thương nhau. Nếu nói về dòng nhạc phản chiến tại Việt Nam, có lẽ tôi thích Sơn Ca 3 hơn tuyển tập ca khúc Da Vàng của ông Trịnh.
Những người tình học trò thời ấy đã bỏ lại sau lưng bao mùa Giáng Sinh và bao nhiêu giọt lệ của người yêu? Những lời khấn nguyện về mùa Giáng Sinh chiến tranh ấy vẫn còn được vang lên khắp hang cùng ngõ hẻm không chỉ Sài Gòn. Nếu chỉ được phép lựa chọn một đia nhạc phản chiến trong tủ đĩa của mình, tôi chỉ chọn Sơn Ca 3, không phải Bob Dylan, Joan Baez, John Lennon hay bất cứ vĩ nhân nào.
Ngày tháng trôi đi qua mau
Mùa sao sáng năm nào
Giờ cũng Noel một mình em thẫn thờ
Quỳ bên hang đá nguyện cầu
Một người chân mây gió
Được sống gần nhau
….
Từ khắp muôn phương lòng thành đang hướng về
Mừng Chúa ngôi hai giáng sinh trên trời cao
Nguyện cầu yên bình nhân thế
Giữ vững tin yêu trọn đời
Bài thánh ca ngọt đầu môi
Quê hương chinh chiến đã lâu rồi
Người ngoài biên cương vẫn miệt mài đi
Mấy mùa Giáng sinh niềm nhớ bâng khuâng tìm về
Hòa theo khúc nhạc mừng Chúa sinh ra đời
……
Lạy Chúa mùa Giáng Sinh xưa
ngày đầu vướng yêu đương
Người ấy hứa với con rằng
Tan mùa chiến chinh
Ngày đó anh về kết đôi
Nhưng từng đêm chiếc lá lìa ngàn
Đêm từng đêm giấc mơ kinh hoàng
Nhân loại còn ngủ say
bên những kiếp người quê hương đọa đày
Ôi đêm thánh vô cùng
lời thương rền khắp muôn trùng
Người mau về đi ! đừng gieo biệt ly!
từng hồi chuông nửa đêm sầu bi
Chiến cuộc mấy mươi năm
mệnh trời bắt gian truân
Lạy Chúa chinh chiến lâu rồi
cho mùa Giáng Sinh này đến Thanh bình Chúa ơi!
Lạy Chúa chinh chiến lâu rồi
cho người núi sông rũ áo tang bồng Chúa ơi!
Sue Hajdu
Gần mười năm đã trôi qua, tính từng ngày. Tôi vẫn còn yêu.
Tôi còn nhớ lần đầu tiên đặt chân đến Sài Gòn. Bầu trời màu xám chì cuối mùa mưa. Nhìn qua khung kính cửa sổ ở sân bay Tân Sơn Nhất. E ngại pha lẫn tò mò. Cách bài trí ở nhà ga, sân bay, nơi các nhân viên hải quan ngồi trên bọc vinyl kiểu thập kỷ 60, và du khách phải đi qua một sợi thừng bằng nhung đỏ căng trên hàng cọc bằng đồng thau – giống như thứ người ta vẫn thấy ở các nhà hát thế kỷ XIX. Tôi còn nhớ tiếng cười ròn rã, hào hứng của mấy người bạn Việt Nam ra đón chúng tôi – họ hàng của một người tôi quen ở Sydney. Sau một lượt chào hỏi, chúng tôi chen chúc lên một chiếc minibus đi về trung tâm thành phố, phía đường Đồng Khởi. Các con phố theo nhau chạy về phía sau xe trong ánh hòang hôn đỏ tía xen lẫn ánh vàng của đèn đường và ánh xanh của đèn neon. Đêm hôm đó, tôi thiếp đi vì mệt trong tiếng nhạc ru karaoke, vọng sang từ bên kia đường.Nếu tôi có điều gì hối tiếc, thì đó là không lường trước những gì sẽ xảy ra, và đã không ghi lại thật nhiều hình ảnh của Sài Gòn xưa cũ, của từng tòa nhà cổ. Đáng lẽ tôi phải biết chuyện đó. Năm 1996-1997, một loạt các công trình xây dựng trước khi cuộc khủng hỏang châu Á xảy ra. Đột nhiên một số tòa nhà tôi yêu thích biến mất. Tôi chỉ còn lại hoài niệm về những gì đã mất để tự an ủi mình – khu chung cư Pháp thuộc cũ nát ở nơi hiện nay là Saigon Center hoặc những ngôi biệt thự kiểu Pháp, bóng ma kiến trúc Saigon Square. Đồng Khởi biến thành công trình xây dựng và nơi ở trước kia của Gramham Greene trở thành cát bụi dưới những nhát búa máy. Tôi có những người bạn vẫn thích ngồi trên những chiếc ghế thấp lè tè ở quán Bố Già để nhấm nháp một ly cà phê vỉa hè. Để ngắm cái gì? Showroom xe máy của hãng Yamaha? Phải chi họ biết.
Đêm Giáng Sinh 1993, chúng tôi ngồi bên vỉa hè uống bia với một số khách trọ khác trong khách sạn. Một cặp vợ chồng Việt kiều, chủ một doanh nghiệp nhỏ, than phiền vì không tìm được nhân viên văn phòng phù hợp. Chẳng có người Việt nào đủ kỹ năng cần thiết. Họ sẵn lòng tuyển người ngọai quốc, nếu tìm được ai đó rành tiếng Việt.
Mới đây mà mọi chuyện đã khác. Ở Việt Nam hiện nay có rất nhiều người Việt đủ kiến thức chuyên môn. Các công ty nước ngoài cũng không cần tuyển nhân viên quản lý cấp trung nữa. Dù sao cũng chẳng có mấy người nước ngoài biết nói tiếng Việt. Trong thập kỷ vừa qua, các công trình xây dựng ở khu trung tâm xuất hiện như nấm mọc sau mưa. Giờ đây chúng ta sống dưới bóng của các tòa nhà ấy, dù ở khu đô thị Nam Sài Gòn đang xây, hay ở các quán café trữ tình trên bán đảo Thanh Đa. Vật tổ của tôn giáo kinh doanh đang không ngừng biến chuyển thành phố này thành một trung tâm kinh tế vây quanh bởi các đô thị vệ tinh. Trong tương lai, các dãy nhà cửa hàng dọc theo đường Lê Lợi sẽ bị san phẳng. Dân cư sẽ không sống ở khu trung tâm nữa. Điều này có thể hình dung được, dù đó không phải là cung cách của người Việt Nam. Cùng với quá trình doanh nghiệp hóa thành phố là sự thay đổi tinh tế trong nhận thức về thời gian. Thời gian sẽ bị quản lý chặt chẽ bởi kế họach, lịch biểu chứ không còn tùy hứng. Con người sẽ sống và làm việc vì tương lai. Sớm muộn gì lối sống đó cũng sẽ lan truyền khắp thành phố, và thời gian ở Sài Gòn cũng sẽ giống như thời gian ở bất kỳ nơi nào khác trên thế giới.
Một đêm tôi về nhà muộn sau chuyến đi Campuchia. Việc đầu tiên tôi làm theo sự thôi thúc là leo lên ban công tầng ba để tưới cây. Đã gần nửa đêm. Đâu đó trong hẻm vẳng lại tiếng lóc cóc của cậu bé bán mì xực tắc và tiếng lạch xạch của người đấm bóp dạo, âm thanh quyện vào nhau như trong một dàn nhạc gõ. Từ căn nhà gần đó vọng lại một giọng ca cải lương uể ỏai. Trời lặng gió và không khí lạnh dần. Tôi thấy được hạnh phúc vì được trở về nhà.
Tôi sống trong căn nhà này mới được một năm. Phải mất một thời gian tôi mới nhớ đường đi lối lại trong khu phố. Nhưng bây giờ tôi biết rõ khu phố cũng như biết rõ những ngừơi hàng xóm láng giềng. tôi biết những người bán dạo đạp xe qua con hẻm bao lần mỗi ngày. Mỗi tối lại có một cô bé với giọng rao ngọt như đường. Một ca sĩ hát khiêm nhường. Sau nhiều tháng, tôi mới hiểu được lời rao của cô qua giọng rao kéo dài và biết cô bán thứ gì. Giọng cô trở nên quen thuộc với tôi, như giọng nói bạn bè, mặc dù tôi chưa một lần nhìn thấy cô. Không xa nơi tôi ở, những căn nhà dọc theo con kênh đang bị giải tỏa để xây đường cao tốc. Tôi tự hỏi không biết thứ tiếng ồn ào và thứ ô nhiễm nào sẽ đếm cùng với con đường ấy, và hy vọng tiếng ca cải lương sẽ ở lại với tôi lâu hơn.
Những hậu quả của mười năm phát triển rầm rộ cuối cùng cũng đã lộ diện. Con rồng thịnh vượng bắt đầu gặm đuôi chính mình. Đáp lại cuộc khủng hỏang đô thị sẽ làm cả thành phố tê liệt nếu không được xử lý thích đáng là một lọat các con đường mới mở, các cây cầu mới xây, đường phố phân làn xe, luật giao thông mới, hạn chế xe gắn máy, và các panô quảng cáo xe bus công cộng. Hợp lý hóa. Kỷ luật. Đô thị sạch đẹp. Chúng ta đều biết điều đó là cần thiết.
Sài Gòn đang thay da đổi thịt. Đây không phải là lần đầu tiên điều này xảy ra, nhưng tôi có cảm giác chúng ta đang chứng kiến một sự thay đổi mang tính lịch sử. Quá trình đô thị hóa đang diễn ra ở các làng hoa, các khu vườn trồng rau và cây trái. Con kênh nối liền Sài Gòn – Chợ Lớn với những kho hàng kiểu thế kỷ XIX, những xà lan lớn chở đầy cát, chuối, hoặc hàng chồng ghế nhựa đã không còn như xưa với sáu làn giao thông ầm ào. Con kênh ấy sẽ không bao giờ như xưa nữa. Cùng với làn nước đen quánh như mực, việc vận tải buôn bán trên dòng kênh, những họat động đặc trưng của thành phố suốt ba trăm năm qua, cũng sẽ biến mất. Những người bán dạo sẽ bị cấm vào khu trung tâm thành phố mà phải tập trung ở những khu bán hàng rong để tránh làm mất trật tự cảnh quan đô thị. Lối sống tiền công nghiệp chẳng mấy chốc sẽ biến mất khi Sài Gòn tự ép mình vào thời gian và trật tự của một xã hội hậu công nghiệp. Và cuối cùng quá khứ sẽ lặng lẽ khép mình trong các bảo tàng, các văn khố lưu trữ và các bộ phim truyền hình.
Trong khi đó, tôi muốn thưởng thức trọn vẹn những gì Sài Gòn đang trao tặng. Tôi vẫn có thể thích thú ngắm nhìn những anh chàng điển trai trên những chiếc xe gắn máy với mái tóc đen dày cắt theo kiểu thập niên 30. Tôi vẫn có thể bước ra khỏi nhà bất cứ ngày nào trong tuần và được chào đón bởi một dàn hợp xướng lạc điệu của các giọng nói lanh lảnh. Ngôn từ kéo dài như kẹo cao su. Mềm ra. Tan chảy ra. Cái thứ giọng Sài Gòn đặc trưng với khuynh hướng biến mọi phụ âm thành bán nguyên âm y (Chúng ta đang sống ở đâu? “Yiệc Nam”). Bất cứ buổi tối nào, mùa nào cũng vậy, tôi vẫn có thể đi ra đường với T-shirt và quần short, rồi lái xe trên đường Trần Hưng Đạo trong tiếng động cơ gầm gừ ở mỗi ngã tư có đèn xanh đỏ. Đó là con đường dạo mát yêu thích của tôi, con đường rộng đưa tôi đến thẳng trung tâm Chợ Lớn. Nơi đó tôi có thể khám phá những con hẻm nhỏ bí mật và những ngôi nhà cũ kỹ như trong chuyện cổ tích. Trên đường về nhà, tôi vẫn có thể nhăn mũi vì mùi sầu riêng bán trên vỉa hè, họăc nheo mắt vì ánh điện rực rỡ hắt ra từ các cửa hàng bán bánh Trung thu với những hộp bánh đỏ tươi in chữ mạ vàng.
Hoặc tôi có thể thả mình thóat khỏi mọi quy luật không gian và thời gian. Cứ thể lao lên xe máy mà chạy. Không định hướng. Ngắm các tòa nhà hai bên đường. Đi cho đến tận cùng một con phố chỉ để biết nó chạy đến đâu. Hoặc ngồi trong một quán sân vườn nhấm nháp cà phê suốt buổi sang, sau đó lững thững đi ăn trưa rồi làm một giấc ngủ dài suốt buổi chiều, như một kẻ vô công rỗi việc thực thụ. Rồi buổi tối, sao lại không tìm đến một quán bar trên đường Phạm Ngũ Lão để xem mấy cậu choai choai vặn vẹo cơ thể thao điệu nhạc, trong khi các khách du lịch đứng tuổi, không còn trẻ để mà quan tâm đến âm nhạc nữa, cũng vỗ tay tán thưởng trong tâm trạng phấn khích. Họ cùng chia sẻ bầu không khí vì ở đây không có thái độ thờ ơ, lãnh đạm. Ít ra là chưa.
Năm 1971, trong bản thảo cuốn Vietnam Inc, Philip Jones Griffiths có một nhận xét rất xác đáng về sinh lực tinh thần lưu truyền của người Việt Nam. Bất chấp giai đọan khó khăn kéo dài suôt 3 thập niên vừa qua, sức sống ấy vẫn còn đó, và tôi tin rằng sẽ mãi mãi tồn tại với Việt Nam. Sức sống đó khác với sức sống của bất kỳ thành phố lớn nào trong xã hội phương Tây, khác với sức sống ở bất cứ nơi nào trên lục địa châu Á. Như những chiếc xe gắn máy chạy trong các mạch máu giao thông, sinh lực ất là nguồn nhựa sống của thành phố. Nó không ngừng sôi sục và mê hoặc những ai cảm nhận được vẻ đẹp của nó. Hơn bất cứ lý do nào khác, tôi tin rằng sức sống này chính là điều đã giữ chân tôi lại nơi này suốt mười mấy năm qua. Và chừng nào đó còn hiện diện trong cuộc sống quanh tôi, tôi sẽ còn ở lại đây. Không gì khác có thể thay đổi tình yêu của tôi dành cho thành phố này, bất kể những thay đổi diễn ra đối với diện mạo của nó cũng như lối sống của người dân mà sự phát triển và thịnh vượng kinh tế sẽ đem lại. Chúc Sài Gòn may mắn.
Sue Hajdu, 2003
Trích “Sài Gòn sau màn bụi – Nhiều tác giả”