Trang blog này nhằm lưu lại những bài viết của chính tác giả hoặc của những tác giả khác đã viết và công bố trên các ấn phẩm chính thức, trên phương tiện truyền thông đại chúng, và trên mạng Internet, về những vấn đề Kinh Tế, Văn hoá, Xã hội, Y tế & Giáo dục đang cần tìm hiểu...lúc tuổi già. Không biết nói gì hơn, ngoài lời được xin phép và trân trọng cám ơn các bạn có bài đăng lại trên Blog này.
Thứ Ba, 28 tháng 2, 2023
Thứ Hai, 27 tháng 2, 2023
Vui, buồn ngày thầy thuốc
Hàng năm cứ đến ngày Thầy thuốc Việt Nam, tôi lại suy nghĩ về nghề nghiệp đã gắn bó gần trọn cuộc đời.
Chắc chắn rằng ở bất cứ lĩnh vực nào cũng có những chuyện vui, chuyện buồn. Với tôi là người đã trải qua nghề y cả trong thời kỳ bao cấp và giai đoạn chuyển đổi mấy chục năm qua, hiện về hưu rồi vẫn tiếp tục làm việc thì không khỏi có nhiều trăn trở.
Đầu tiên phải nói rằng y tế nước nhà đã có những bước phát triển rất mạnh mẽ, so với các nước có cùng quy mô kinh tế có lẽ ngành y Việt Nam không thua kém, nếu không muốn nói có những điểm nổi trội hơn. Các cấp quản lý cũng như xã hội vẫn luôn quan tâm đến ngành y, hàng năm đến dịp kỷ niệm chúng tôi luôn nhận được những lời chúc mừng và hoa tươi.
Đó là chuyện vui. Nhưng dịp kỷ niệm không chỉ để chúc tụng mà còn là khoảng thời gian lắng đọng chia sẻ thật lòng với nhau. Ngay trước ngày thầy thuốc là những thông tin về tình trạng thiếu thốn vật tư, thiết bị y tế diễn ra ở nhiều nơi. Vật tư y tế tại những bệnh viện lớn ở Hà Nội và TPHCM như Việt Đức, Bạch Mai, K, Chợ Rẫy… để dành chăm sóc người bệnh được phản ánh là gần như đã hết, các hóa chất xét nghiệm phục vụ chẩn đoán, điều trị cho người bệnh cũng cạn kiệt.
Đó là tình hình chung, còn với mỗi cá nhân bác sĩ, y tá và những người làm việc trong ngành y có lẽ cũng không tránh khỏi những suy tư. Tôi không nói là tất cả, nhưng khi thống kê số cán bộ, công chức nghỉ việc, chuyển việc trong thời gian qua, chúng ta thấy chiếm đa số là lĩnh vực y tế, giáo dục. Thực tế này phần nào phản ánh môi trường làm việc, thu nhập trong lĩnh vực y tế công đang chưa đáp ứng được nguyện vọng của người lao động.
Cá nhân tôi từ trải nghiệm của chính mình trong mấy chục năm qua thấy rằng ngày trước, người dân nói về ngành y một cách tôn trọng. Họ nói với nhau: "ông bác sĩ dặn thế", hoặc tệ lắm thì "bác sĩ bảo thế". Còn bây giờ, tôi vào buồng bệnh khám bệnh xong, chưa kịp ra khỏi buồng bệnh nhân đã oang oang gọi điện thoại báo về nhà thông báo: "chưa được ra viện đâu, chúng nó bảo thế".
Cách đây mấy ngày, trong đêm, một người nhà than phiền là cháu bé bị mê man. Bác sĩ trực là một bác sĩ trẻ, ra khám và trả lời rằng bé ổn định, không có gì nguy hiểm, chỉ là bé đang ngủ thôi. Để chứng minh, bác sĩ trẻ kia khám thần kinh và véo da cháu bé để thử phản xạ. Cháu bé tỉnh giấc khóc ầm ĩ. Lẽ ra người mẹ phải mừng vì con mình bình thường, thì không phải vậy. Người mẹ chửi bác sĩ té tát vì cấu con mình. Cậu bác sĩ trẻ kia sợ hãi không biết phân trần ra sao cho người mẹ hiểu, đành im lặng chịu trận.
Những câu chuyện kiểu như này tôi và đồng nghiệp gặp khá thường xuyên. Ai cũng có thể kể ra nhiều trải nghiệm cay đắng tương tự. Đấy là còn nhẹ. Thỉnh thoảng chúng tôi còn bị đánh, bị dọa giết.
Sao thế nhỉ. Do xã hội hay do chúng tôi? Trước khi bước chân vào ngành y, chúng tôi đều là những chàng trai cô gái ưu tú về cả đạo đức lẫn học lực, phải qua tuyển chọn gắt gao, mới được theo nghề y. Để rồi sau bao năm theo nghề, bỗng một ngày chúng tôi nhận ra, mình từ khi nào đã không còn được sự chia sẻ, thiện cảm từ người bệnh.
Với trải nghiệm của đời người, theo tôi nguyên nhân đầu tiên và lớn nhất là bất cập về cơ chế hoạt động và bất cập giữa kỳ vọng của người dân với đầu tư của xã hội.
Các bất hợp lý như chính sách trả lương cho nhân viên y tế, về quyền tự chủ của bệnh viện, về giá dịch vụ, về cơ chế đấu thầu, về cơ chế đầu tư… đã gây khó khăn cho hoạt động y tế thời gian qua, nhất là các bệnh viện công. Điều này là một thực tế lâu nay nhưng chưa được giải quyết triệt để cả về nguyên nhân chủ quan và khách quan, để đến nỗi hiện nay nhiều bệnh viện lớn phải kêu lên là vật tư chỉ đủ dùng trong chưa đến một tuần.
Bất cập thứ hai là nguồn lực đầu tư dành cho y tế. Người dân từ lâu vẫn nhớ các kỷ niệm thời kỳ bao cấp với y tế và giáo dục là miễn phí. Tuy cái miễn phí của thời ấy vô cùng chật vật, nhưng vẫn là miễn phí. Nó in hằn sâu trong ký ức người dân. Giờ mô hình kinh tế đã thay đổi, mọi hoạt động kinh tế xã hội đều phải tự hạch toán, không còn miễn phí chung chung như trước. Người dân đi viện vốn tâm lý nặng nề, lại thêm áp lực về sự quá tải bệnh viện, về chi phí… thì không khỏi có những phản ứng oán trách, mà oán trách gần nhất là đổ lên đầu người bác sĩ đang đứng cạnh mình.
Đứng trước tình hình đó, giải pháp đúng đắn nhất là phải minh bạch thay vì lấp lửng. Chúng ta giao cho ngành y nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe toàn dân, nhưng nguồn lực đầu tư không đáp ứng yêu cầu nên ngành y vẫn phải xoay xở để hoàn thành nhiệm vụ. Vậy cái phần thiếu hụt kia ngành y lấy gì ra để bù vào. Xin thưa nguồn lực thiếu hụt ấy được bù đắp bởi sự cắt xén bớt các tiêu chuẩn nghiệp vụ, cắt xén các khấu hao cơ sở vật chất, cắt xén các đãi ngộ của nhân viên y tế...
Khi ngành y có những biểu hiện của bất cập giữa đòi hỏi của nhiệm vụ và khả năng đáp ứng đầu tư thì ngành y lại phát động phong trào y đức. Tôi hoàn toàn nhất trí với việc là con người thì ai cũng cần phải sống có đức. Ngành nào cũng cần đạo đức. Nhưng chúng ta không thể dùng y đức như một công cụ vạn năng để giải quyết mọi khó khăn, và thực tế dù y đức đến đâu nhưng thiếu thốn trang thiết bị, vật tư, các quy định quản lý trói buộc thì bác sĩ cũng đành bó tay.
Tôi nhớ từ 1996 thì bắt đầu nói mạnh về y đức, kiểm điểm cuối năm, nâng bậc nâng lương, xét đi học, xét lên chức... đều mang y đức ra khảo. Chính trong thời kỳ này, vị trí của ngành y dần xuống thấp. Mọi khó khăn, nỗi khổ của nhân viên y tế về điều kiện làm việc thiếu thốn, về quản lý lạc hậu, về chế độ đãi ngộ thấp không được quan tâm đúng mức. Những sự không vừa ý của xã hội với ngành y đều bị quy là do "thiếu y đức". Câu cửa miệng người nhà bệnh nhân thường xuyên hét vào mặt chúng tôi ở khoa cấp cứu là: "Y đức để ở đâu...".
Một điều theo tôi là đáng mừng, đó là giờ đây xã hội đã bớt đi những suy nghĩ ấu trĩ, ngày càng có nhiều tiếng nói dám nhìn thẳng vào sự thật. Trên truyền thông giờ đã dần bớt đi những bài tuyên truyền về y đức sáo rỗng, mà đã biết bàn vào thực chất đầu tư của xã hội cho ngành y cũng như xây dựng các thể chế pháp luật cho ngành y.
Xã hội lý tưởng mà y tế và giáo dục miễn phí chắc sẽ còn rất lâu nữa mới thực hiện được. Từ nay tới lúc đó tôi nghĩ tốt nhất là chúng ta nên minh bạch phần đóng góp của xã hội cũng như trách nhiệm của từng công dân với sức khỏe của chính mình. Công cụ đảm bảo cho sự minh bạch đó chính là hệ thống luật về ngành y ngày càng hoàn thiện. Luật khám chữa bệnh sửa đổi năm 2023 vừa được Quốc Hội thông qua đem lại một hy vọng xây dựng một nền y học Việt Nam công bằng hiệu quả với tất cả mọi người.
Từ rất nhiều hệ lụy do phong trào duy ý chí gây ra, cá nhân tôi và có lẽ là các đồng nghiệp đều tha thiết mong được sống và làm việc theo pháp luật, được pháp luật bảo vệ. Trong lịch sử Việt Nam trước kia chưa từng có bộ luật riêng về ngành y. Theo thời gian, hệ thống luật về sức khỏe dần dần được xây dựng và hoàn thiện. Luật bảo vệ sức khỏe nhân dân năm 1989, Luật Dược năm 2005, Luật khám chữa bệnh 2009 và nay là Luật khám chữa bệnh sửa đổi 2023.
Tuân thủ Luật khám chữa bệnh là điều kiện tiên quyết để xây dựng nền y học Việt Nam hiện đại. Hy vọng khi Luật khám chữa bệnh đi vào cuộc sống, mối quan hệ giữa bệnh nhân và thầy thuốc được cân bằng, có sự tin cậy lẫn nhau và được pháp luật bảo hộ. Mỗi bên thực hiện tốt phần của mình để cho công cuộc bảo vệ sức khỏe ngày một tốt hơn. Trên nền tảng pháp luật được thực hiện nghiêm túc thì đạo đức của mỗi cá nhân cũng như đạo đức của xã hội mới ngày càng được nâng cao
Bây giờ mà ngành y tế Việt Nam lại phát động một phong trào học tập Luật khám chữa bệnh thì tôi sẽ là người ủng hộ nhiệt tình nhất. Vì tôi đã chờ đợi điều này cả đời người rồi.
Tác giả: Tiến sĩ, bác sĩ Quan Thế Dân tốt nghiệp Đại học Y Hà Nội 1983, từng công tác điều trị và giảng dạy tại một số cơ sở y tế ở TP HCM và Hà Nội, sau khi nghỉ hưu hiện đang tiếp tục công tác trong lĩnh vực y tế tư nhân.
Con đường ở Sài Gòn mang tên những bác sĩ lừng danh
Cẩm Chi
Pasteur, Yersin, Calmette là những bác sĩ tài đức nổi tiếng bởi những phát minh vĩ đại cho nền y học thế giới. Hai người trong số đó còn có thời gian sinh sống và làm việc ở Việt Nam, sáng chế những liều thuốc quý giá cứu sống hàng triệu người khỏi dịch bệnh, bệnh tật.
Pasteur
Sài Gòn hiện có hai con đường cùng mang tên Pasteur tại quận 1, quận 3 và Thủ Đức. Tại khu vực quận 1 - quận 3, đường Pasteur dài gần 2,7km, từ phường Nguyễn Thái Bình, Bến Thành của quận 1, sang các phường 6, 8 của quận 3. Đây cũng là một trong những con đường xưa nhất Sài Gòn, được thành lập từ năm 1865. Thời kỳ đó, bến Chương Dương còn là một con rạch, với 2 con đường Olivier và Pellerin. Khi con kênh bị vùi, đường Olivier mất theo. Đến năm 1955, con đường được đổi tên thành đường Pasteur.
Đường Pasteur, đoạn trước cổng Trường Đại học Kiến trúc nổi tiếng với hai hàng cây xanh mát
Louis Pasteur (1822 - 1895) được coi là ông tổ của vắc-xin. Với vai trò một nhà nghiên cứu, bác sĩ người Pháp, ông là cha đẻ của ngành nghiên cứu vi sinh vật học với nhiều phát hiện về các nguyên tắc của tiêm chủng, lên men vi sinh và thanh trùng. Ông cũng là người sáng chế ra thuốc kháng sinh đầu tiên trên thế giới. Pasteur có vai trò quan trọng trong việc bác bỏ Thuyết tự sinh, vốn được in sâu trong tư tưởng của các nhà khoa học trước đó. Ông đã thí nghiệm và cho mọi người thấy rằng nếu không có sự nhiễm khuẩn từ bên ngoài, thì vi sinh vật chẳng thể tự mình xuất hiện. Viện Pasteur cũng được thành lập dựa trên ý tưởng của ông.
Louis Pasteur được gọi là “cha đẻ vắc-xin”, tuy nhiên ông lại chưa từng học y
Đóng góp to lớn của Pasteur được ghi nhận bằng việc có khá nhiều con phố, đường, địa danh của Việt Nam mang tên ông. Ngoài TP.HCM, Pasteur cũng được đặt tên đường ở Đà Lạt, Nha Trang, Đà Nẵng, Tây Ninh, Sóc Trăng, Bà Rịa Vũng Tàu, vườn hoa Pasteur ở Hà Nội... Con đường Pasteur ở quận 3 cũng là nơi tọa lạc của Viện Pasteur Thành phố Hồ Chí Minh được thành lập năm 1891. Đây là nơi chuyên nghiên cứu và thí nghiệm các bệnh nhiệt đới và dược phẩm ở Việt Nam.
Viện Pasteur TP.HCM có tuổi đời hơn 300 năm
Yersin
Alexandre Émile Jean Yersin (1863 - 1943) là một bác sĩ, nhà vi khuẩn học, nhà thám hiểm người Pháp gốc Thụy Sỹ. Đóng góp của ông cho nền y học chính là người đồng phát hiện nguồn gốc gây ra bệnh dịch hạch, nghiên cứu về độc tố bệnh bạch hầu, tham gia việc phát triển huyết thanh ngừa bệnh dại. Ở tuổi 25, ông nhận bằng Tiến sĩ Y khoa với nghiên cứu về bệnh lao.
Bước ngoặt cuộc đời của ông chính là năm 27 tuổi, ông đã trải qua nhiều chuyến thám hiểm, khám phá các địa danh ở Việt Nam và các nước Đông Nam Á thời đó. Năm 1891, ông quyết định sinh sống ở Nha Trang.
Bác sĩ Yersin có 50 năm gắn bó với Việt Nam
Bác sĩ Yersin để lại ký ức sâu đậm tại Việt Nam, ông được gọi cái tên thân mật là Ông Năm và thường khám chữa bệnh miễn phí cho dân nghèo. Ông cũng là một trong những người đầu tiên sáng lập ra viện Pasteur - Sài Gòn, Nha Trang, đồng thời là người thành lập và là hiệu trưởng đầu tiên của trường Y khoa Hà Nội (tiền thân của Đại học Y Hà Nội). Ông cũng có nhiều đóng góp trong lĩnh vực nông nghiệp như là người đầu tiên nhập giống cây cao su về trồng tại Việt Nam, trồng các loại cây thuốc chữa bệnh chữa bệnh sốt rét, cảnh báo giông bão và các hiện tượng khí hậu ảnh hưởng tới nông dân…
Ngoài ra, Yersin là người đã khám phá ra Cao nguyên Lâm Viên, có công lớn trong việc phát hiện ra Đà Lạt vào năm 1893, dần dần biến nơi này thành một thành phố nghỉ dưỡng xinh đẹp, trung tâm du lịch của Đông Dương.
Ngôi nhà gỗ mà Yersin sinh sống ở Nha Trang là địa điểm tham quan nổi tiếng ở thành phố biển
Năm 2014, ông đã được truy tặng “Công dân Việt Nam danh dự”. Ở Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Nha Trang, Đà Lạt, Bình Dương, Ninh Thuận đều có những con đường, công viên được đặt tên để vinh danh Yersin. Ngoài ra, còn có nhiều công trình có giá trị văn hóa lịch sử kiến trúc như viện Pasteur Nha Trang, trường Cao đẳng sư phạm Đà Lạt, Đại học Yersin…
Calmette
Sinh cùng thời với Yersin ở thế kỷ 19, Albert Calmette (1863 - 1933) là một trong những học trò của Louis Pasteur. Calmette được Pasteur giao nhiệm vụ thành lập, xây dựng và chỉ đạo chi nhánh của viện Pasteur tại Sài Gòn vào năm 1891. Ông trở thành viện trưởng đầu tiên ở chi nhánh đầu tiên ngoài nước Pháp của viện Pasteur Paris.
Calmette là một vị bác sĩ nổi tiếng người Pháp có nhiều đóng góp cho viện Pasteur
Trong 3 năm tại Sài Gòn, Calmette đã hoàn thành khối lượng công việc đồ sộ khi vừa xây dựng cơ sở, cải tiến kỹ thuật và thực hiện một số xét nghiệm chẩn đoán bệnh. Ông phát triển thành công kháng độc tố đầu tiên chống nọc độc của rắn và thực hiện nghiên cứu về bệnh tả, làm men rượu. Ông là người đã phát triển thành công vaccine phòng bệnh chó dại, đậu mùa và bệnh lao. Sau đó, ông còn hợp tác với bác sĩ Borrel hoàn thiện các tìm tòi của bác sĩ Yersin về vi trùng bệnh dịch hạch, cộng tác với bác sĩ J.Guérin hoàn thành phương thuốc ngừa lao.
Đường và cầu Calmette thuộc phường Nguyễn Thái Bình, Quận 1, TP.HCM
Để ghi nhớ công lao của ông, người Pháp ở Sài Gòn đã đặt tên ông cho các địa danh ở đây. Đường Calmette khởi đầu từ Bến Chương Dương ngay cầu Calmette tới đường Trần Hưng Đạo. Đây là một con đường thuộc loại xưa nhất thành phố. Cầu Calmette bắc qua kênh Bến Nghé, từ đường Calmette thuộc quận 1 sang đường Đoàn Văn Bơ thuộc quận 4. Cây cầu mới được xây dài 300m, rộng 22m, với 6 làn xe.
Tiếp tục nỗ lực vượt khó để chăm sóc sức khỏe nhân dân ngày một tốt hơn
(BDO) Sáng 27-2, Sở Y tế long trọng tổ chức Họp mặt kỷ niệm 68 năm Ngày thầy thuốc Việt Nam (27.2.1955-27.2.2023). Tham dự buổi họp mặt có ông Nguyễn Lộc Hà, Ủy viên Thường vụ Tỉnh ủy, Phó Chủ tịch UBND tỉnh.
Theo ngành y tế tỉnh, năm 2022 mặc dù còn nhiều khó khăn, thách thức nhưng toàn ngành đã nỗ lực hoàn thành cơ bản các chỉ tiêu y tế. Tiêu biểu là tỷ lệ người tham gia bảo hiểm y tế đạt trên 92%, duy trì bền vững mức sinh thay thế và tuổi thọ trung bình người dân đạt 75,99 tuổi...
Ông Nguyễn Lộc Hà trao tặng hoa cho ngành y tế tỉnh
Tại buổi họp mặt, ông Nguyễn Lộc Hà đã tri ân những nỗ lực, sự cống hiến to lớn của ngành y tế tỉnh nhà trong thời gian qua. Bên cạnh những kết quả đạt được, ngành vẫn còn những tồn tại, hạn chế như: Tình trạng thiếu thuốc, vật tư y tế tại các cơ sở y tế công lập; chế độ, chính sách đãi ngộ đối với đội ngũ, cán bộ nhân viên y tế chưa thật hợp lý, đời sống của một bộ phận còn nhiều khó khăn…
Tri ân các cán bộ y tế có nhiều đóng góp cho ngành y tế tỉnh
Ông Nguyễn Hồng Chương, Giám đốc Sở Y tế trao 50 triệu đồng ủng hộ Quỹ vì người nghèo tỉnh từ sự đóng góp của cán bộ công chức, viên chức, người lao động ngành y tế
Thời gian tới, Phó Chủ tịch UBND tỉnh yêu cầu ngành tiếp tục nỗ lực, vượt khó, triển khai đồng bộ 3 nhiệm vụ cơ bản, trước tiên là đẩy nhanh tiến độ hoàn thiện Đề án “Đảm bảo nguồn nhân lực Ngành Y tế Bình Dương đến 2025, định hướng đến 2030”; Đề án đưa Bệnh viện 1.500 giường đi vào hoạt động... Thứ 2, ngành cần chủ động tham mưu cấp thẩm quyền phê duyệt mua sắm thuốc, hóa chất, sinh phẩm, vật tư, trang thiết bị y tế… đáp ứng yêu cầu công tác dự phòng, điều trị. Song song với 2 nhiệm vụ trên, ngành cần tập trung công tác phòng, chống các loại dịch bệnh truyền nhiễm góp phần quan trọng để tỉnh thực hiện hiệu quả Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế- xã hội.
Ông Nguyễn Lộc Hà trao tặng bằng khen của UBND tỉnh cho các tập thể
Nhân dịp này, UBND tỉnh trao tặng bằng khen cho 10 tập thể, 6 cá nhân đã có nhiều thành tích xuất sắc đóng góp cho ngành y tế tỉnh nhà; Trao 50 triệu đồng ủng hộ Quỹ vì người nghèo tỉnh từ sự đóng góp của cán bộ công chức, viên chức, người lao động ngành y tế.
Hoàng Linh
Phan Huy Đường, Người tư duy tự do
Nguyễn Hữu Hồng Minh
Kỳ 1
Người tư duy tự do chỉ là một ý tôi rút ra từ cái tựa sách của nhà nghiên cứu triết học, dịch giả Phan Huy Đường “Penser librement”. Dịch thoát qua là “Nghĩ thoải mái”. Chữ này tưởng cũ thế mà hóa ra đắt ghê gớm!
Các bài xem thêm:
Trần Vũ - Phép lạ của văn chương (Kỳ 1)
‘Triết gia nhà quê’ thành công với ‘Cám dỗ Việt Nam’
‘Gai sắc’ trong truyện Trần Vũ (kỳ 1)
Tôi nhớ cái ấn tượng lạ lẫm châm biếm mà trong những lần liên lạc với tôi, khi gửi những thông tin từ website “Ăn mày văn chương” bao giờ ông cũng thòng thêm một câu “cứ thoải mái xem”. Với tư duy của người Việt hình như vẫn quen và thích “cứ thoải mái ăn” chứ chưa quen lắm với “thoải mái xem”! Ngay với đám nhà văn chữ nghĩa cũng thế! Lười đọc. Chậm đọc. Và không đọc! Vì những cái mới lạ là thử thách và khó tiêu. Ăn khó tiêu, nhưng ngon miệng vẫn cứ cố ăn. Đọc khó tiêu một chút là ngại, là bỏ! Vì thế cứ thoải mái xem tưởng sung sướng lắm hóa ra cực hình! Và đó là một chất giễu nhại đầu tiên về cốt cách và thế giới Phan Huy Đường.
Chân dung nhà văn, dịch giả, nhà nghiên cứu Triết học Phan Huy Đường (1945 - 2019)
*
Phan Huy Đường là một tên tuổi lớn trong những trí thức sống ở nước ngoài và vẫn làm việc chí cốt với tiếng Việt. Tôi nói “làm việc với tiếng Việt” theo nghĩa đen là có nguyên nhân. Ông là một dịch giả gạo cội và đã chuyển ngữ rất nhiều tác phẩm tương đối có tầm, có tiếng vang của các nhà văn Việt Nam ra tiếng Pháp và sau này là tiếng Anh. Một công việc mà phải nói rõ rằng chỉ có thể làm bằng tình yêu khi xa quê hương bởi ông kể cho tôi hay ông sang Pháp từ những năm 1963, khi vừa 18 tuổi. Có lẽ ông thuộc thế hệ các nhà văn, dịch giả đi học và ở lại để có môi trường được làm việc, cống hiến nhiều hơn chứ không vì biến cố chính trị. Ông có viết một cái biographie khá ấn tượng để trên trạm đọc Ăn mày văn chương do ông tổng chủ như sau:
"Sinh 1945 tại Hà Nội, Việt Nam. Năm có hơn triệu người Việt chết đói.
Còn sống: 2007, Antony, Pháp. Năm có hàng chục triệu trẻ em trên thế giới đang đói. (Thời điểm ông lập trang web và viết những dòng này - Nguyễn Hữu Hồng Minh chú thích).
1963: du học tại Paris, ngành dược. 1965: Bỏ dược vì không thích, không muốn sống chỉ để kiếm tiền và cũng không có khả năng đi xa hơn thế trong ngành này.
Quay sang học kinh tế. Học xong cử nhân, bỏ kinh tế vì không tin. Lỗi tại Karl Marx.
Quay sang học tin học, có vẻ chắc ăn hơn. Quả vậy; vừa thích thú vừa cơm cháo đề huề, chưa bao giờ bị đói. Than ôi!...
Bắt đầu hành hạ tiếng Pháp đầu thập niên 80.
Bắt đầu hành hạ tiếng Việt cuối thập niên 80.
Bắt đầu dịch văn chương Việt Nam qua tiếng Pháp đầu thập niên 90.
Bắt đầu phụ Nina McPherson hành hạ tiếng Mỹ đầu thập niên 90.
Bắt đầu hành hạ chính mình từ lúc nào thì không biết vì chưa bao giờ có nhu cầu.
Dù sao, cho tới chết, trong bất cứ lĩnh vực nào, chỉ biết viết chính mình thôi. Dở quá... Đành vậy!"
Dấu vân tay, thủ bút của nhà văn Phan Huy Đường trên website họa sĩ Phan Nguyên.
Như vậy có thể thấy ông quay lại bắt đầu hành hạ tiếng Việt cuối thập niên 1980 mà trước đó đầu thập niên là hành hạ tiếng Pháp. Ông nghiên cứu triết học, là chuyên gia về Jean - Paul Sartre, về các tác giả thơ Pháp, về các trào lưu Hiện đại, Hậu hiện đại... Đặc biệt ông viết nhiều cuốn sách bằng tiếng Pháp trong đó có cuốn Penser librement sau này chuyển ngữ tiếng Việt thành “Tư duy tự do” in ở nhà xuất bản Đà Nẵng. Nếu tôi nhớ không lầm trong lần hai anh em gặp nhau và đi chơi ở Paris, anh có kể cuốn sách là một công trình nghiên cứu làm luận án tiến sĩ của anh. Văn bằng này sau đó anh bỏ ngang hay đã bảo vệ xong tôi không còn nhớ nhưng cuốn sách là một “hậu chứng”. Phan Huy Đường là một người rất yêu tự do. Tự do theo nghĩa của thi sĩ Sandor Petofi (Hungary) khắc đá trong một bài thơ nổi tiếng do nhà thơ Xuân Diệu dịch:
Tự do và ái tình
Vì các ngươi ta sống
Vì tình yêu lồng lộng
Tôi hiến cả đời tôi
Vì tự do muôn đời
Tôi hy sinh tình ái.
Tuy nhiên, bản dịch này văn vẻ quá, nhiều chất mơ mộng - duy tình hơn là khẳng định tính chất tự do - duy lý mà theo tôi, Sandor Petofi muốn gửi gắm đề đạt. Có vẻ như “Người tư duy tự do” Phan Huy Đường gần hơn với bản chuyển ngữ sau:
Tôi chỉ cần hai điều
Tự do và tình yêu.
Vì yêu hiến cả đời mình
Vì tự do nguyện quên tình yêu thương.
Lại nói về trạm đọc hay website “Ăn mày văn chương”. Có thể nói, ông gửi mail mời tôi là một trong những người đầu tiên khi vừa xây dựng xong, công bố rộng rãi trên không gian ảo. Lý do cũng rất đơn giản, ông đọc những bài tôi viết lúc đó trên talawas, một diễn đàn văn học nghệ thuật trí thức nổi tiếng thời điểm ấy. Ông muốn những trao đổi trên bình diện văn hóa ấy cô đặc, tập trung lại dưới một file của một tác giả. Và từ tác giả này sẽ giới thiệu một tác giả khác lồng vào trong file riêng của mình nếu nhận thức bản thân thấy đó là một cá nhân có triển vọng đầy năng lực, năng lượng. Tôi nhìn vào những nhà văn tên tuổi lúc ấy như Mai Ninh, Miêng, Phạm Trọng Luật, Nam Dao, Trần Vũ và ông Phan Huy Đường.
Nhà văn, dịch giả Phan Huy Đường và Nguyễn Hữu Hồng Minh trong một quán nhỏ ở khu Đại học La Tinh - Paris. (Ảnh: Cao Việt Dũng)
Ông cắt nghĩa “chữ ăn mày văn chương” với cái nhìn của một triết gia, hóm hỉnh và trí tuệ. Đó là sự liên đới và bổ túc cho nhau. Người đọc và Nhà văn là một sự gắn bó mật thiết, biện chứng không thể tách rời. Tác phẩm văn chương chỉ hình thành trong quá trình đọc của độc giả. Vì thế nó có khả năng tồn tại trong một không gian và thời gian rộng lớn hơn không gian và thời gian của tác giả. Tôi muốn trích lại trung thực ý ông vì không thể cắt nghĩa hay hơn được nữa:
“Trong văn học, tôi kêu gọi người khác đọc những gì tôi viết vì không có ai đọc thì những gì tôi viết chỉ tồn tại như một mớ giấy lem nhem mực, không thành tác phẩm, không thành văn.
Điều trên cần thiết nhưng không đầy đủ. Nếu người đọc tiếp cận bài vở của Tôi với một tấm lòng bẩn thỉu đầy hận thù, ganh ghen, với đầu óc đầy thành kiến, nghi kỵ, không gợn chút tự do tin người, có đọc nghìn lần đi nữa thì trước tác của Tôi cũng không thành văn được. Chỉ khi nào người ấy đọc trước tác của Tôi với lòng nhân và lý trí tự do của con người, trước tác đó mới có khả năng thành văn, mới có khả năng tồn tại vượt thời gian và thời đại của Tôi. Và đây là điều kiện cuối cùng, cơ bản nhất: trước tác của Tôi phải có khả năng khơi lòng nhân và lý trí tự do nơi người đọc, như thế nó mới có khả năng tìm được người đọc xứng đáng và trở thành văn chương.
Vì vậy, khi Tôi đọc văn của người khác, điều đầu tiên Tôi cố gắng làm là quét sạch kiến thức của Tôi để có thể đón nhận một con người khác Tôi, trong tư thế của một con người tự do, bình đẳng và trìu mến.
Đó, với Tôi, là thái độ ăn mày văn chương.
Và cũng chỉ là thái độ văn chương thôi. Còn phải viết sao cho hình thức với nội dung quyện lại thành một, biến thành văn phong trung thực của một con người, biến thành nghệ thuật”.
Rất tiếc là tôi đã không tham gia với ông vào cái Trạm đọc “Ăn mày văn chương” đó. Chỉ vì một lý do, bất ngờ tôi không thấy nhà văn Trần Vũ xuất hiện trong sáu nhân vật điều hành chung cái “Trạm đọc” ấy như ông đã giới thiệu dẫn ra! Sau này tôi mới biết Phan Huy Đường cũng chưa phải “tư duy tự do” cho lắm (!?). Ông cũng khá “thủ cựu”. Có thể vì tuổi tác! Bởi vì không thích Trần Vũ quá lăng xê truyện ngắn Đỗ Hoàng Diệu mà ông “không muốn cho Vũ chơi chung nữa” như một cách ông “đáo để” bảo tôi trong những đêm gặp gỡ hai anh em lang thang Paris. Tất nhiên tôi thừa hiều là còn nhiều chuyện khác. Mà thôi, quan trọng gì đâu! Vì kể chuyện về Vũ thì giọng ông vẫn đầy thương mến như giọng một ông anh Cả đối với một thằng em trai.
Tôi nhận ra tâm hồn ông thật trẻ trung và cách yêu ghét quá mãnh liệt. Tuy vậy, nghe kỹ thì ẩn sâu trong những câu chuyện của ông bàng bạc nỗi tiếc nuối của một người sống lang bạt, xa quê hương quá lâu. Lần gặp gỡ ngắn ngủi ở trời Âu đó ông kể nhiều chuyện về giới văn chương, trí thức, chữ nghĩa, triết học, chuyện vỉa hè Paris…bằng một giọng Bắc 54 đều đều, duyên dáng nhưng sắc cạnh đến từng âm tiết… Càng có tuổi hình như lại càng nhiều thương nhớ!
Sau này, tôi đọc trong tiểu thuyết “Một mối tình ngụ cư” của Phan Huy Đường thật nhiều giằng xé, tâm trạng. Ông viết: “Có nỗi đau cứ vô lý lang thang dưới hình hài tôi, chẳng để làm gì!...”.
Chân dung nhà văn Phan Huy Đường (Tư liệu của họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi)
Kỳ 2
Tôi chưa đọc Phan Huy Đường nhiều bằng đọc các bài viết ký tên Trần Đạo. Sau này mới biết hóa ra Trần Đạo, Đơn Hành chính là bút danh của ông. Bên trong con chữ ông giấu kín nỗi đau và tình yêu Tổ quốc nhìn từ xa…
Tin, bài liên quan:
Phan Huy Đường, Người tư duy tự do (Kỳ 1)
Joseph Brodsky - Hoàng Ngọc Biên: Thơ, âm vực và im lặng
Nữ họa sĩ đầu tiên làm từ điển Tây Ban Nha - Việt Nam
Rất nhiều bài viết của ông trên diễn đàn hướng về đất nước. Nguồn cội có lẽ chưa bao giờ thôi day dứt trong ông. Tôi đặc biệt chú ý loạt bài ông viết đã lâu khi trở về quê hương và có một chuyến đi dọc những miền đất khúc khuỷu quanh co mang hình chữ S. Ông viết và bày tỏ tình yêu của mình bằng những câu hỏi cật vấn, riết róng, thiết tha làm sao để có nhiều “tự do” hơn, nhiều “cải cách” hơn để đời sống con người tốt hơn. Sau loạt bài chất chứa nỗi niềm ấy tôi thấy ông không viết nữa.
Nhà văn, nhà nghiên cứu triết học, dịch giả Phan Huy Đường (phải) và họa sĩ Phan Nguyên
Khi sử dụng tên thật cho những nghiên cứu triết học, ngôn ngữ hay sáng tạo văn chương, những trang viết của ông như có hồn hơn. Có nỗi đau vô lý, vô hình cứ ám ảnh đến chết một cuộc đời. Và chữ nghĩa tha nhân nhìn cách nào đó có khác gì là “một mối tình ngụ cư” giữa cuộc đời viễn mộng.
Nhà văn Albert Camus từng viết “Chỉ có một vấn đề triết học thực sự nghiêm túc và đó là tự sát. Phán xét liệu cuộc đời có đáng sống hay không cũng giống như trả lời câu hỏi cơ bản của triết học. Tất cả những điều còn lại - thế giới có ba chiều hay không, trí óc có chín hay mười hai hạng mục - đều đi sau đó. Đó là những trò chơi; người ta đầu tiên phải trả lời đã...”. (There is but one truly serious philosophical problem and that is suicide. Judging whether life is or is not worth living amounts to answering the fundamental question of philosophy. All the rest - whether or not the world has three dimensions, whether the mind has nine or twelve categories - comes afterwards. These are games; one must first answer!).
Nhà văn Albert Camus thời gian viết tiểu thuyết phi lý hiện sinh nổi tiếng "L'Étranger" (Kẻ xa lạ), năm 1942
Và cách trả lời của Phan Huy Đường ở trong nhiều bài viết ký tên Trần Đạo, Đơn Hành, những bút hiệu cũng cho thấy lý lẽ tối thượng của một người nghệ sĩ cô đơn, dám tư duy tự do. Và điều đó cũng có nghĩa là đã chọn cho mình một tử huyệt. Như một câu nói nổi tiếng của triết gia Hegel: “Nếu muốn yêu thương anh phải phụng sự. Nếu muốn tự do anh phải chết!” (If you want to love you must serve, if you want freedom you must die).
Phan Huy Đường làm việc khá khoa học và chuyên cần, để lại rất nhiều trước tác. Ông tư duy, sáng tạo, viết lách song cả hai thứ tiếng là Pháp và Việt. Và hẳn nhiên là có nhiều cuốn thực sự có giá trị. Tôi tin thời gian sắp tới đây sẽ được in, giới thiệu ở trong nước. Bạn đọc ham chuộng trí thức và giới trẻ thích nghiên cứu hẳn nhiên là có thêm một nguồn tham khảo khá đắc địa. Những tác phẩm như: “Một hành trình tư duy”, “Vẫy gọi nhau làm người”, “Tư duy tự do”, “Chơi trò Babel”, “Aimer - Mourir - Yêu - Chết”, “Thơ người dị ứng với thơ”, “Một mối tình ngụ cư”, “Nhạc ở tôi”, “Lang thang chữ nghĩa”… Trong đó như tôi đã nhắc có cuốn “Penser librement” nguyên bản bằng tiếng Pháp đã được chính tác giả viết lại bằng tiếng Việt từng được in ở nhà xuất bản Đà Nẵng từ 2004.
Và nếu “Penser librement”, muốn “tư duy tự do” thì phản đề như Hegel, còn phải tập chết trước khi chết thật nhiều lần nữa! Trong cảm thức. Trong phẫn nộ. Trong chọn lựa. Trong tư tưởng.
***
Không chỉ viết mà chính Phan Huy Đường còn dịch. Và điều này mới đáng nói, ông là một cây cầu văn hóa giới thiệu văn chương Việt Nam ra với thế giới qua kênh tiếng Pháp. Và sau này còn là tiếng Anh. Các nhà xuất bản, các kênh như Philippe Picquier, Nina McPherson… đã từng giới thiệu khoảng 50 gương mặt các nhà văn, nhà thơ tiêu biểu của Việt Nam. Ông đã chọn dịch văn Nguyễn Huy Thiệp, Bảo Ninh, Trần Vũ, Phạm Thị Hoài, Dương Thu Hương, Khánh Trường…, thơ Lê Đạt, Nguyễn Duy, Bùi Minh Quốc, Lê Bi… Có thi phẩm ông chọn dịch các nhà thơ nữ trẻ Phan Huyền Thư, Phạm Tường Vân, Chinh Lê, Ly Hoàng Ly… và nhiều tác giả khác nữa. Chừng mực nào khá lớn lao, ý nghĩa. Mà cũng có thể gọi là đồ sộ!
Tuy nhiên, khi theo dõi Trạm đọc “Ăn mày văn chương”, tôi bỗng nhận ra một điều khá thú vị, thậm chí trái ngược về công việc dịch thuật của ông. Phan Huy Đường hoàn toàn không đánh giá cao chuyện này. Thậm chí ông còn mỉa mai, dè bỉu nó. Ông gọi công việc của mình là buồn thảm, là Bóng (trong nghĩa cái Bóng). Thảm hại hơn, công việc dịch thuật là “Bóng của một cái Bóng”.
Vậy tại sao lại dịch?
Ờ, thì bởi vì không thể không dịch!
Như thế nào là một tác phẩm? Liệu có phải vì bên ngoài nó có một chiếc bìa vẽ đẹp lộng lẫy, có tên tác giả tên sách, nhà xuất bản, là một khổ giấy 13x19 chẳng hạn. Bên trong là đầy chữ, đựng một câu chuyện, một triết thuyết, hay dễ hiểu hơn dựng một bài thơ, một truyện ngắn, truyện vừa truyện dài hoặc một tiểu thuyết nào đấy?
Không! Hoàn toàn không phải!
Ai nói như thế? Xin thưa, Jorge Francisco Isidoro Luis Borges!
Luis Borges, là ai mà có thể hồ đồ như vậy?
Vâng, có thể ông hồ đồ vì ngay từ lúc còn sống, ông đã được coi là một tác giả kinh điển của nền văn học thế kỷ XX. Lại nữa, gần như cả đời đã dồn mọi tâm lực vào sáng tác trong cảnh mù lòa, không vợ con. Có thể lắm chứ!
Nhà văn, nhà thơ, dịch giả, nhà văn Luis Borges.
Luis Borges, cha đẻ của chủ nghĩa hiện thực huyền ảo Mỹ Latinh. Ông là người được đánh giá có kiến văn uyên bác trải từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Các tác phẩm của ông, bao gồm truyện ngắn, tiểu luận, thơ, phê bình văn học và dịch thuật, không ngừng là nguồn cảm hứng to lớn đối với các nhà văn toàn thế giới. Ông có một quan niệm riêng về một tác phẩm, một cuốn sách như sau: "Thật phi lý khi cho rằng một cuốn sách không phải là một cuốn sách. Nó bắt đầu có mặt khi một độc giả mở nó ra!”.
Phan Huy Đường lặng lẽ làm công việc “mở ra những cuốn sách ấy” từ một phía khác. Chuyển ngữ. Ông chỉ đi bên cạnh Luis Borges trong việc “phục sinh” hay “cho nó có mặt” với người đọc bên ngoài thế giới còn bưng thức và tăm tối Việt. Tình nguyện làm cái Bóng của một cái Bóng!
Tôi trích lại nguyên văn dưới đây một đoạn văn ông viết về cái nghề buồn thảm. Dịch thuật. Và kỳ thực, tôi chưa thấy ai viết hay như thế! Trong khi chúng ta còn quá “diêm dúa” tham lam, khoe mẽ với những đòi hỏi “dịch giả là đồng tác giả”, “dịch giả hay hơn tác giả” thì Phan Huy Đường đã bắt được cái Bóng của một cái Bóng ấy! Một tư duy tự do.
Nhà văn Milan Kundera
“Thời còn sống dưới chế độ xã hội chủ nghĩa hiện thực, có lúc Milan Kundera chỉ viết cho một độc giả duy nhất, dịch giả của mình. Lúc đó, tác phẩm của ông tới độc giả nhờ bản dịch. Nay Kundera đã thành danh quốc tế. Ông vừa cho xuất bản tập tiểu luận Les testaments trahis. Có đoạn ông lên án mãnh liệt khuynh hướng thiếu thủy chung trong thuật dịch văn chương.
Một nhà văn có khả năng và điều kiện làm chủ tác phẩm của mình và những bản dịch là chuyện đáng mừng. Mừng cho nhà văn, mừng cho độc giả. Có nhiều nhà văn lớn rất sành ngoại ngữ, có thể viết thẳng tác phẩm của mình bằng ngoại ngữ. Chẳng mấy khi họ tự dịch. Cũng lạ. Và đáng tiếc. Có lẽ đó là cách duy nhất để có bản dịch "thủy chung", có khi một cách bất ngờ. Như Marx viết lại bản dịch Tư bản luận của Roy, và thản nhiên tuyên bố: bản tiếng Pháp, do ông viết lại, có giá trị khoa học ngang với bản gốc tiếng Ðức. Tới nay, đụng vấn đề, nhiều độc giả điên đầu, không khẳng định nổi bản nào "gốc" hơn bản nào. Cứ như truyện Cửu Âm chân kinh của Kim Dung ấy. Dù sao, thế giới văn chương đã co lại. Chẳng ai sành nhiều ngoại ngữ. Giao lưu văn hoá vẫn cần người dịch văn. Nghệ thuật dịch còn là đề tài đáng suy nghĩ.
Nhà văn Phan Huy Đường (trái) và nhà thơ Chân Phương. (Ảnh trên facebook CP)
Ngày nay, khốn nạn hơn "nghề" dịch văn, hiếm.
Ai thích làm giàu, nên tránh xa. Ở Pháp, đó là một nghề khốn khổ. Người được Giải dịch thuật quốc gia năm 1992 ở Pháp, vì đã dịch toàn bộ tác phẩm của một nhà văn lớn của Bồ Ðào Nha, đã thổ lộ trong báo Le Monde: tính theo giờ, lương không bằng lương người quét dọn thuê (femme de ménage). Ðúng thế. Giá công đoàn (tarif syndical) hiện nay ở Pháp là 87 FF một trang 1500 ký hiệu. Người dịch giỏi, dịch cho nhà xuất bản lớn, dịch sách ăn khách, có thể hy vọng 130 FF một trang. Dịch cho "ra hồn" văn một tác phẩm hai, ba trăm trang có thể mất hơn cả năm. Dịch xong, có khi nhà xuất bản không thích bản dịch, hoặc không còn khả năng xuất bản văn chương ngoại quốc. Lúc đó, có thể toi công, ít nhất một phần lớn. Muốn thu hoạch khá, đều đặn, và đảm bảo hơn, nên quét dọn thuê. Chí ít cũng lợi cho mình, cho người.
Bìa cuốn "Thiên sứ" - "La messagère de cristal" của nhà văn Phạm Thị Hoài do dịch giả Phan Huy Đường chuyển ngữ
Ai thích an phận, càng nên xa chuyện dịch văn. Trớ trêu như "nghề" này, hiếm. Thành tâm đến mấy, cẩn trọng đến mấy, cũng trở thành kẻ phản bội, đối với một số độc giả, có khi đối với chính nhà văn. Xưa, khi Baudelaire công bố tác phẩm của Edgar Poe, thiên hạ liền nhao nhao lên án. Ngày nay, có nhiều bản dịch Edgar Poe khác, không mấy ai lẫn lộn Baudelaire với Edgar Poe. Tuy vậy độc giả Pháp vẫn thích đọc Edgar Poe qua bản dịch của Baudelaire…” (Trích Trạm đọc “Ăn mày văn chương).
***
Khi đọc tin anh Phan Huy Đường mất, tôi hơi choáng. Thực ra cõi người đến lúc lá rụng về cội thôi. Một người sống xa tổ quốc như anh từ năm 18 tuổi thì việc sống chết cũng hiển nhiên, bình thường. Nhưng như thế từ nay các bạn văn hay yêu văn chương chữ nghĩa khi đến Paris sẽ không còn một ông anh tâm tình như thế, chí tình như thế! Được ở bên anh, nghe anh nói chuyện học hỏi thêm được biết bao nhiêu điều hay về cõi đời, cõi văn thú vị!…
Kỳ 3
Lại nhớ lần qua Pháp cùng nhà văn dịch giả trẻ Cao Việt Dũng, chúng tôi được nhà văn, dịch giả Phan Huy Đường đón tiếp nồng hậu ở cà phê Les Deux Magots. Sau đó ông giới thiệu Café de Flore, một thời là địa điểm lui tới của các nhà văn hiện sinh nổi tiếng như Jean Paul Sartre, Albert Camus, Simone de Beauvoir… cùng nhiều nhóm trí thức văn nghệ sĩ tiên phong lừng lẫy một thời, trong đó có cả nhà triết học Trần Đức Thảo.
Tin, bài liên quan:
Phan Huy Đường, Người tư duy tự do (Kỳ 2)
Phan Huy Đường, Người tư duy tự do (Kỳ 1)
Joseph Brodsky - Hoàng Ngọc Biên: Thơ, âm vực và im lặng
Buổi sáng cuối tuần ở Paris, chúng tôi hẹn nhau đến đây uống cà phê. Thong thả nhìn ngắm những bức hình ngày xưa. Nghe ông kể lại chuyện Trần Đức Thảo từng gặp Jean Paul Sartre ở đây như thế nào? Trong cái lạnh tuyết giá bắt đầu rơi ở Pháp giữa tháng mười một, chúng tôi đã có những tranh luận thú vị về văn học, văn chương Việt Nam. Tôi nhớ Cao Việt Dũng đã “cãi” nhau với Phan Huy Đường rất hăng! Còn học giả uyên thâm tên tuổi chỉ cười. Nụ cười có sức mạnh hiền triết “giải chấp” tất cả.
Chân dung Nhà văn, Nhà nghiên cứu Triết học, Dịch giả Phan Huy Đường - Oil painting 8 x 10 - Họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi
Sau đó, Phan Huy Đường còn lấy xe hơi chở tôi đi khám phá nhiều quán cà phê khác ở Paris. Tôi nhớ quán cà phê ở khu La-Tinh hay còn gọi là khu đại học Paris, không gian của quán đặc biệt và có sức quyến rũ đến nỗi câu chuyện chúng tôi kéo dài đến tận… 3 giờ khuya!
Café de Flore lịch sử ở Paris Pháp, nơi gặp gỡ nhiều văn nghệ sĩ nổi tiếng như Jean Paul Sartre, Albert Camus, Simone de Beauvoir… Trong đó có cả nhà triết học Trần Đức Thảo. Đây cũng là nơi khởi nguồn cho nhiều cuộc tranh luận quan điềm, nghệ thuật...
Nhà nghiên cứu Triết học Trần Đức Thảo (1917 - 1993) thời gian ở Pháp
Lần khác, ông lấy xe chở tôi đi ăn trong khu phố China Town quận 13. Rồi tiếp tục lang thang đến một quán ăn Ả Rập, mà ông nhỏ nhẻ giới thiệu rằng nhà riêng của tổng thống Pháp Francois Mitterrand ở gần đây thôi! “Tổng thống Pháp cũng thích ăn cơm với thịt trừu và uống vang đấy”. Ông hóm hỉnh giễu nhại. Mà thật! Cái mùi thịt trừu (cừu non) nướng bốc khói trong sương lạnh với những câu chuyện văn chương nhớ đâu kể đó, lan man không đầu không cuối thật là quyến rũ. Tôi nhận thấy tâm hồn ông thật trẻ trung. Hoàn toàn không có những biên giới hay khoảng cách tuổi tác. Dấu vết thời gian có chăng ở đuôi mắt nhiều vết chân chim. Thi thoảng giữa câu chuyện có chút gợn buồn vì những mong ước từ thời trẻ đến hôm nay, như nhạc sĩ Phạm Duy viết là vẫn “tôi đang mơ giấc mộng dài/ Đừng lay tôi nhé cuộc đời xung quanh”. Nhiều chuyện giữa trí thức trong - ngoài nước vẫn cộm lên, dày thêm những bức tường thành, chuyện hòa hợp hòa giải dường như vẫn còn quá xa mới như ngày nào từ Pháp ông cũng góp lên một ánh lửa tranh đấu cho Việt Nam hòa bình. Giờ tuổi đã cao và bao nhiệt huyết, giấc mơ đã trở thành hoài niệm. Cuộc đời quá ngắn cho mọi việc, mọi chuyện. “Vẫy gọi nhau làm người” cuối cùng hóa ra là là cú vẫy của hư ảo. Như thi sĩ Phạm Hầu đã từng viết trong “Vọng Hải đài”: “Đưa tay ta vẫy ngoài vô tận/ Không biết xa lòng có những ai?…”.
Vẫn có những tri âm vẫy lại ông đó chứ! Ví như nhà nghiên cứu Hoàng Ngọc Hiến đã viết về “Tư duy Tự do” cuốn sách quan trọng tối thượng của nhà nghiên cứu Triết học Phan Huy Đường như sau:
Bìa cuốn sách "Tư duy Tự do" của Phan Huy Đường do nhà xuất bản Đà Nẵng ấn hành
“Tự do của con người được tác giả xem xét trong quan hệ của nó với vật chất, trong quan hệ của nó với sự sống và trong quan hệ của nó với “tha nhân và với chính mình”. Từ ba quan hệ này có ba hình thái của tự do. Hình thái thứ nhất đòi hỏi sự hiểu biết vật chất một cách chính xác, tức là kiến thức khoa học, hoặc nói một cách bao quát, đó là “tính tất yếu được nhận thức”. Hình thái thứ hai đòi hỏi “tình yêu sự sống”. Hình thái thứ ba đòi hỏi “tình đoàn kết giữa người với người”. Đoàn kết là “nhận thấy mình ở tha nhân và tha nhân ở mình trong quan hệ với người khác, với chính mình”. Hiểu như vậy, “đoàn kết là hình thái tối cao, là chân trời của tự do”…
Dù ít ỏi nhưng đó không phải là những tín hiệu của hư vô.
***
Tạm biệt nước Pháp và Paris, ông gửi tặng tôi mấy tập thơ của Paul Éluard và Pablo Neruda bản tiếng Pháp. Cũng bởi xung quanh những câu chuyện chúng tôi nói ở Paris chỉ như mở ra chưa bao giờ khép lại. Và Phan Huy Đường cho thấy ông là một người rất sành về thơ. Sau này tôi mới đọc được các bài viết của ông về Thơ trên “Ăn mày văn chương”. Đặc biệt ông còn dịch nhiều thơ của các nhà thơ trẻ Việt Nam mà ông thích qua tiếng Pháp và tiếng Anh.
Nhà thơ Pablo Neruda (1904 - 1973)
Trong mấy lần gặp gỡ ngắn ngủi của chúng tôi ở Paris, ông có nói về bài thơ “Tự do” của Paul Éluard cũng như “Hai mươi bài thơ tình và một bài thơ tuyệt vọng” của Pablo Neruda. Ông nói, thơ thực thụ không chỉ mới mẻ về hình thức mà còn phải hàm chứa những suy luận triết lý. Dấu ấn siêu thực thể hiện đậm nét ở cách quan niệm bí ẩn, siêu hình về mối tương quan hữu cơ giữa các mặt đối lập trong thực tế như sống - chết, thực - ảo, cái có thực - cái tưởng tượng, cái cao cả - cái thấp hèn, cái quá khứ - cái tương lai… Ông cho đó là những bài thơ chiến đấu và có tính dân tộc rất lớn. Đã là một thi sĩ thì không thể không biết đến những bài thơ trác tuyệt như thế. Sau này, tìm hiểu thêm, tôi mới biết cả hai thi sĩ Paul Éluard (Pháp) và Pablo Neruda (Chi Lê) đều là những nhà thơ từng yêu lý tưởng người Cộng sản.
Bìa cuốn sách có hai mặt "Yêu" và "Chết" - Một tác phẩm của Phan Huy Đường do họa sĩ Nguyễn Trọng Khôi trình bày
Tôi muốn giới thiệu lại bài thơ “Liberté” của Paul Éluard mà anh Phan Huy Đường rất thích. Cũng có thể qua đó, thấy một phần nào ánh sáng tâm hồn anh, người “Tư duy tự do” đã từng nghĩ về tự do!
Bài thơ sau là bản dịch của Tế Hanh. Trong các bài thơ chuyển ngữ từ tiếng Pháp, tôi thích các bản dịch của Tế Hanh hơn cả.
Thi sĩ Paul Éluard (1895-1952), tác giả bài thơ Liberté - Tự do nổi tiếng
Bài thơ Tự Do - Liberté - Paul Éluard
Trên những trang vở học sinh
Trên bàn học trên cây xanh
Trên đất cát và trên tuyết
Tôi viết tên em
Trên những trang sách đã đọc.
Trên những trang trắng chưa dung
Đá máu giấy hoặc tro tàn
Tôi viết tên em
Trên hình ảnh rực vàng son
Trên gươm đao người lính chiến
Trên mũ áo các vua quan
Tôi viết tên em
Trên sa mạc trên rừng hoang
Trên tổ chim trên hoa trái
Trên thời thơ ấu âm vang
Tôi viết tên em
Trên điều huyền diệu đêm đêm
Trên khoanh bánh trắng hằng ngày
Trên các mùa cùng gắn bó
Tôi viết tên em
Trên những mảnh trời trong xanh
Trên ao mật trời ẩm mốc
Trên hồ vầng trăng lung linh
Tôi viết tên em
Trên mỗi khoảnh khắc hừng đông
Trên đại dương trên tàu thuyền
Trên vùng núi non điên dại
Tôi viết tên em
Trên áng mây trôi bềnh bồng
Trên nhễ nhại cơn bão dông
Trên hạt mưa rào nhạt thếch
Tôi viết tên em
Trên cây đến vừa thắp sang
Trên cây đèn đang lụi dần
Trên cả họ hàng quây quần
Tôi viết tên em
Trên nơi trú ẩn tan hoang
Trên ngọn hải đăng đổ nát
Trên mấy bức tường ngao ngán
Tôi viết tên em
Trên sức khoẻ được phục hồi
Trên hiểm nguy đã tan biến
Trên hi vọng chẳng vấn vương
Tôi viết tên em
Và bằng phép màu một tiếng
Tôi bắt đầu lại cuộc đời
Tôi sinh ra để biết em
Để gọi tên em
(Tế Hanh dịch)
Trong một mail trao đổi giữa ông và tôi khá lâu (2007) ông viết như sau về ý thức quan trọng như thế nào trước cám dỗ sa lầy hay sa đọa văn chương. Một cảnh báo trước cái Ác nhân danh mỹ miều sa-lon nghệ thuật:
"Khi nhà văn mô tả con người bị ép sống như thú vật, văn phong càng trong sáng bao nhiêu càng khiến độc giả thương cảm thân phận làm người bấy nhiêu!
Khi nhà văn đội lốt người cho thú vật để thăng hoa nếp sống cầm thú với nhau trong nhân giới, văn phong càng mỹ miều bao nhiêu càng trơ trẽn bấy nhiêu!…".
Tiễn biệt ông, Nhà văn, Nhà nghiên cứu Triết học, Dịch giả Phan Huy Đường.
Hay ngắn gọn, đầy đủ nhất, tiễn biệt một Người tư duy Tự do!
Để biết thế giới luôn rộng mở và những chân trời chưa bao giờ đóng lại…
Sài Gòn, chiều 24/10/2019.