Loạt bài "Ông tướng tình báo bí ẩn và những điệp vụ siêu hạng" có thể tìm đọc TẠI ĐÂY.
Nguyễn Chí Vịnh
Nguyễn Chí Vịnh | |
---|---|
Nguyễn Chí Vinh năm 2019 | |
Chức vụ | |
Nhiệm kỳ | 27 tháng 2 năm 2009 – 1 tháng 6 năm 2021 12 năm, 94 ngày |
Bộ trưởng | Phùng Quang Thanh Ngô Xuân Lịch Phan Văn Giang |
Kế nhiệm | Hoàng Xuân Chiến |
Nhiệm kỳ | 17 tháng 1 năm 2011 – 30 tháng 1 năm 2021 10 năm, 13 ngày |
Nhiệm kỳ | 2002 – 2009 |
Tiền nhiệm | Đặng Vũ Chính |
Kế nhiệm | Lưu Đức Huy |
Nhiệm kỳ | 1998 – 2002 |
Thông tin chung | |
Quốc tịch | Việt Nam |
Sinh | 15 tháng 5, 1957 Hà Nội, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa |
Dân tộc | Kinh |
Tôn giáo | Không |
Đảng phái | Đảng Cộng sản Việt Nam |
Gia quyến | Nguyễn Thanh Hà (chị ruột) Đặng Vũ Chính (cha vợ) |
Cha | Nguyễn Chí Thanh (Nguyễn Vịnh) |
Mẹ | Nguyễn Thị Cúc |
Con cái | Nguyễn Chí Đức |
Học vấn | Giáo sư - Tiến sĩ |
Binh nghiệp | |
Phục vụ | Quân đội nhân dân Việt Nam |
Thuộc | Quân đội nhân dân Việt Nam |
Năm tại ngũ | 1976 – 2021 |
Cấp bậc | Tập tin:Vietnam People's Army Colonel General.jpg Thượng tướng |
Chỉ huy | Quân đội nhân dân Việt Nam |
Nguyễn Chí Vịnh (sinh năm 1957) là sĩ quan cấp cao của Quân đội Nhân dân Việt Nam, hàm Thượng tướng. Ông nguyên là Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam phụ trách ngoại giao, tình báo, công tác gìn giữ hòa bình. Trong Đảng Cộng sản Việt Nam, ông từng là Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI, XII, Ủy viên Thường vụ Quân ủy Trung ương. Ông từng giữ chức vụ Tổng cục trưởng Tổng cục 2[1], lãnh đạo công tác tình báo quân đội trong vòng gần 8 năm từ 2002 đến 2009. Ông còn được biết tới là một trong những hạt giống đỏ thế hệ đầu tiên, cả sự nghiệp của ông gắn bó với những lãnh đạo thế hệ cùng cha mình như Lê Đức Anh, Tố Hữu và Lê Đức Thọ[2].
Thân thế[sửa | sửa mã nguồn]
Nguyễn Chí Vịnh sinh ngày 15 tháng 5 năm 1957[3] tại Hà Nội, nguyên quán ở thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông là con trai của Đại tướng Nguyễn Chí Thanh. Nguyên tên Đại tướng Nguyễn Chí Thanh là Nguyễn Vịnh, vì vậy về sau ông lấy tên khai sinh của mình đặt tên cho con trai là Nguyễn Chí Vịnh.[4] Mẹ ông là bà Nguyễn Thị Cúc, thiếu tá, công tác ở Bệnh viện 108, mất năm 1979. Chị gái ông là Nguyễn Thanh Hà, nguyên Phó Cục trưởng Cục Hàng không Việt Nam, từ 2007 đến nay là Chủ tịch Hội đồng quản trị – Công ty Cổ phần Hàng không Vietjet Air.
Giáo dục[sửa | sửa mã nguồn]
- Năm 1968 đến 1973, học viên Trường Văn hóa Quân đội - Thiếu sinh quân Nguyễn Văn Trỗi,
- Năm 1973 đến 1976, học sinh trường Cấp 3 Lý Thường Kiệt nay là Trường Trung học phổ thông Việt Đức – Hà Nội
- Năm 1976, Học khóa 11, Học viện Kỹ thuật Quân sự. Từ năm 1978 đến tháng 8 năm 1980 ông đi rèn luyện thực tế tại một đơn vị ở Thanh Hóa, tháng 8 năm 1980, ông chuyển sang học trường Sĩ quan Thông tin.
- Năm 1983, tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sĩ quan Thông tin, nay là Trường Đại học Thông tin liên lạc.
- Năm 2003, bảo vệ thành công Luận án Tiến sĩ chuyên ngành Quan hệ Quốc tế.
- Năm 2010, được trao học hàm Phó Giáo sư chuyên ngành Quan hệ Quốc tế.
Sự nghiệp[sửa | sửa mã nguồn]
- Năm 1983, Nguyễn Chí Vịnh tốt nghiệp Trường Cao đẳng Sĩ quan Thông tin. Ra trường vì là con lãnh đạo, lẽ ra được đặc cách du học Liên Xô nhưng ông từ chối, xung phong đi chiến trường Campuchia. Dưới sự quan tâm của một số lãnh đạo cấp cao, ông được điều về phòng tình báo của Bộ Tư lệnh 719 tại Campuchia thay vì làm lính thông tin ở Sư đoàn 330 của đại tá Phạm Văn Trà[5]. Chưa đầy 3 năm ở đơn vị, ông kết hôn cùng con gái ông Vũ Chính - là lãnh đạo lực lượng tình báo tại Campuchia.
- Năm 1989, ông được cử đi học ngắn hạn về tình báo tại Liên Xô
- Năm 1991 (34 tuổi): Trưởng phòng (thuộc Cục 12, Tổng cục 2).
- Tháng 2 năm 1995: Phụ trách Cục 12, Tổng cục 2.
- Tháng 5 năm 1995 (38 tuổi): Phó Cục trưởng Cục 12.
- Năm 1996: Cục trưởng Cục 12, Tổng cục 2.
- Năm 1998: Phó Tổng cục trưởng Tổng cục 2.
- Năm 1999 (42 tuổi), ông được thăng quân hàm Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Năm 2002 (45 tuổi): Tổng cục trưởng Tổng cục 2 Bộ Quốc phòng.[1] Ông là người góp phần lớn trong việc giữ vững sự tồn tại và phát triển của Tổng cục 2, Bộ Quốc phòng. Trong thời gian đảm nhiệm cương vị Tổng cục trưởng Tổng cục 2 (2002 – 2009), nhiều đơn vị dưới quyền được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang Nhân dân và nhiều danh hiệu cao quý khác.[6]
- Tháng 12 năm 2004 (47 tuổi), ông được thăng quân hàm Trung tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Tháng 2 năm 2009 (52 tuổi), ông được bổ nhiệm giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.[7][8]
- Tháng 8 năm 2009: ông thôi kiêm nhiệm chức vụ Tổng cục trưởng Tổng cục 2.
- Ngày 27 tháng 4 năm 2010: Tiến sĩ Nguyễn Chí Vịnh được Hội đồng Chức danh Giáo sư Nhà nước trao học hàm Phó Giáo sư chuyên ngành Quan hệ Quốc tế.
- Tháng 12 năm 2011 (54 tuổi), ông được thăng quân hàm Thượng tướng Quân đội nhân dân Việt Nam.
- Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, ông được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XI.
- Ngày 26 tháng 1 năm 2016, tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII của Đảng, ông tái đắc cử Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa XII.
- Ngày 29 tháng 4 năm 2016, ông được Bộ Chính trị chỉ định tham gia Thường vụ Quân ủy Trung ương.
- Ngày 20 tháng 2 năm 2017, theo Quyết định 249/QĐ-TTg, Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc đã bổ nhiệm lại Nguyễn Chí Vịnh giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Quốc phòng.[9]
- Ngày 1 tháng 6 năm 2021, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ký Quyết định, Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Ủy viên Trung ương Đảng khóa XII, thôi giữ chức vụ Thứ trưởng Bộ Quốc phòng kể từ ngày ký.
Lịch sử thụ phong quân hàm[sửa | sửa mã nguồn]
Năm thụ phong | 1983 | 1985 | 1986 | 1987 | 1989 | 1991 | 1995 | 1999 | 2004 | 2011 | |
---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|---|
Quân hàm | |||||||||||
Cấp bậc | Trung úy | Thượng úy | Đại úy | Thiếu tá | Trung tá | Thượng tá | Đại tá | Thiếu tướng | Trung tướng | Thượng tướng | |
Trích dẫn[sửa | sửa mã nguồn]
“ | Càng căng thẳng thì càng phải độc lập tự chủ. Càng căng thẳng thì càng không bao giờ để kéo vào những liên minh với nước này để chống nước khác. Đó là nguyên tắc không chỉ bây giờ mà còn từ xưa trong việc bảo vệ tổ quốc. Việt Nam là bạn, là đối tác nhưng không tham gia liên minh quân sự.[10] | ” |
Gia đình riêng[sửa | sửa mã nguồn]
- Cha ruột: Nguyễn Chí Thanh, Đại tướng, nguyên Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam
- Cha vợ: Trung tướng Đặng Vũ Chính, tức Đặng Văn Trung, nguyên Tổng cục trưởng Tổng cục 2, Bộ Quốc phòng Việt Nam (từ năm 1994 đến năm 2002).
- Con trai Thiếu tá Nguyễn Chí Đức, Trung đoàn 98, Sư đoàn 316 Quân khu 2.
Khen thưởng[sửa | sửa mã nguồn]
- Huân chương Quân công hạng Nhất, Nhì, Ba.
- Huân chương Chiến công hạng Nhất, Nhì, Ba.
- Huân chương Bảo vệ Tổ quốc Hạng Nhất của Campuchia.
- Huân chương Hoàng gia Sahametrei cấp Mohaséreivath (Đại thập tự) của Campuchia.
- Huân chương Hữu nghị của Liên bang Nga (2019)[11].
- Huân chương Mặt trời mọc (2021)[12].
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ a b Thế Vinh - Hà Trường (ngày 24 tháng 3 năm 2008). “Tình báo quốc phòng phải vững chắc, nhạy bén hơn nữa”. Báo Vietnamnet. Bản gốc lưu trữ ngày 26 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2010.
- ^ Năm 1983 khi ra trường, ông xung phong đi Campuchia. Vì muôn ông an toàn, tư lệnh Quân tình nguyện Việt Nam tại Campuchia là tướng Lê Đức Anh và trưởng ban tổ chức TW Lê Đức Thọ đã giữ ông làm việc trong phòng tình báo bộ tự lệnh mặt trận thay vì phải ra chiến đấu trực tiếp. Trong quá trình công tác, ông kết hôn với con gái lãnh đạo cao nhất của tình báo quân đội tại Campuchia là Vũ Chính. Lãnh đạo trực tiếp của ông là Đặng Trần Đức, sau này ông Đức nghỉ làm cục trưởng cục 12, thì ông Vịnh thay thế làm quyền cục trưởng. Trong thời gian cha vợ làm tổng cục trưởng tình báo quân đội, thì ông được bổ nhiệm làm tổng cục phó.
- ^ Đồng chí Nguyễn Chí Vịnh[liên kết hỏng]
- ^ Nguyệt Tú - Nguyệt Tĩnh (ngày 4 tháng 2 năm 2006). “Chuyện tình yêu của đại tướng Nguyễn Chí Thanh”. Báo Tuổi trẻ online. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2010.
- ^ News, VietNamNet. “Cuộc gặp của Thượng úy Vịnh với nhà lãnh đạo số 2 của Đảng”. VietNamNet. Truy cập ngày 11 tháng 10 năm 2021.
- ^ Những chiến công thầm lặng - Tổng cục 2, Bộ Quốc phòng xuất bản tháng 3 năm 2008, Hà Nội
- ^ “Việt Nam-Trung Quốc tăng cường quan hệ quốc phòng”. BBC. ngày 2 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2010.
- ^ Đức Thịnh (ngày 17 tháng 7 năm 2009). “Lãnh đạo Bộ Quốc phòng tặng nhà tình nghĩa gia đình chính sách”. Báo Quân đội nhân dân. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2010.
- ^ “Bổ nhiệm lại 2 Thứ trưởng Nguyễn Chí Vịnh và Lê Quý Vương”. Báo điện tử Người Lao Động. ngày 21 tháng 2 năm 2017. Truy cập ngày 23 tháng 7 năm 2017.
- ^ Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh: Càng căng thẳng, càng phải độc lập tự chủ,tuoitre, 21.07.2015
- ^ “Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh nhận Huân chương Hữu nghị của Liên bang Nga”.
- ^ “Nhật Bản trao huân chương cho thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh”. zingnews.vn.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
- Việt Nam sẽ làm tất cả để bảo vệ chủ quyền – Vnexpress ngày 6/6/2011.
- “Việt Nam – Trung Quốc tăng cường quan hệ Quốc phòng”. BBC. ngày 2 tháng 3 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2010.
- “Thứ trưởng Bộ Quốc phòng làm việc tại Nhật Bản”. Thông tấn xã Việt Nam. ngày 28 tháng 3 năm 2010. Bản gốc lưu trữ ngày 31 tháng 7 năm 2010. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2010.
Nguyễn Chí Thanh Sáu Vi Trường Sơn | |
---|---|
Chức vụ | |
Bí thư Trung ương Cục Miền Nam | |
Nhiệm kỳ | tháng 10 năm 1964 – 6 tháng 7 năm 1967 (mất) |
Tiền nhiệm | Nguyễn Văn Linh |
Kế nhiệm | Phạm Hùng |
Nhiệm kỳ | tháng 10 năm 1964 – 6 tháng 7 năm 1967 |
Tiền nhiệm | Trần Nam Trung |
Kế nhiệm | Phạm Hùng |
Nhiệm kỳ | 11 tháng 7 năm 1950 – 1961 |
Tiền nhiệm | Chức vụ mới lập |
Kế nhiệm | Song Hào |
Phó Chủ nhiệm | |
Thông tin chung | |
Sinh | 1 tháng 1, 1914 Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên, Trung Kỳ, Liên bang Đông Dương |
Mất | 6 tháng 7, 1967 (53 tuổi) Hà Nội, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa |
Dân tộc | Kinh |
Đảng phái | Đảng Cộng sản Việt Nam |
Binh nghiệp | |
Thuộc | Quân đội nhân dân Việt Nam Quân Giải phóng miền Nam |
Năm tại ngũ | 1950–1967 |
Cấp bậc | |
Chỉ huy | Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam |
Tham chiến | Chiến tranh Việt Nam |
Khen thưởng |
|
Đại tướng Nguyễn Chí Thanh (1914 – 1967) là một tướng lĩnh quân đội và là tướng chính trị đầu tiên của Quân đội nhân dân Việt Nam[1]. Ông từng công tác ở nhiều lĩnh vực chính trị khác nhau và đều có khả năng phát triển lĩnh vực đó nên còn được gọi là "vị tướng phong trào".[2][3] Ông giữ chức vụ Bí thư Trung ương Cục miền Nam, Bí thư Quân ủy Miền kiêm Chính ủy Quân Giải phóng miền Nam trong chiến tranh Việt Nam, trực tiếp lãnh đạo chiến trường Miền Nam Việt Nam. Ông cũng là người phát triển phương châm chiến lược "Nắm thắt lưng địch mà đánh"[3][4] cho toàn miền Nam của Quân Giải phóng miền Nam.
Thân thế và sự nghiệp cách mạng[sửa | sửa mã nguồn]
Nguyễn Chí Thanh tên thật là Nguyễn Vịnh, sinh ngày 1 tháng 1 năm 1914, tại thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Đại tướng có cha là ông Nguyễn Hán và mẹ là bà Trần Thị Thiển, ông là con thứ 6 trong gia đình có 11 người con (tính cả anh em cùng cha khác mẹ)[5]. Ông sinh trưởng trong một gia đình trung nông, thuở nhỏ cũng được học hành. Năm 14 tuổi, cha qua đời, gia đình nghèo, ông bỏ học, đi làm tá điền kiếm sống và nuôi gia đình.
Năm 1934, ông tham gia cách mạng trong phong trào Mặt trận Bình dân. Năm 1937, ông gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương, lần lượt giữ các chức vụ: Bí thư chi bộ, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên.
Từ năm 1938 đến năm 1943, ông nhiều lần bị Pháp bắt giam ở nhà lao Huế, Lao Bảo, Buôn Ma Thuột. Đến khi Nhật đảo chính Pháp (ngày 9 tháng 3 năm 1945) thì ông được ra tù. Sau khi ra tù và trở lại hoạt động, ông được bầu làm Bí thư Khu ủy khu IV và được cử đi dự Quốc dân Đại hội ở Tân Trào (tháng 8/1945). Trong Đại hội Đảng ở Tân Trào, ông được đặt bí danh là Nguyễn Chí Thanh, được bầu vào Ban chấp hành Trung ương Đảng và được chỉ định làm Bí thư Xứ ủy Trung Kỳ[6] có nhiệm vụ theo dõi và tổ chức giành chính quyền tại Trung Kỳ trong Cách mạng tháng 8.
Từ năm 1946 đến 1948, ông làm Bí thư Tỉnh uỷ Thừa Thiên, Bí thư Phân Khu uỷ Bình - Trị - Thiên.
Từ năm 1948 đến 1950, ông làm Bí thư Liên khu ủy IV.
Cuối năm 1950, bổ nhiệm giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị Quân đội nhân dân Việt Nam. Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ II (1951), được cử vào Bộ Chính trị.
Năm 1959, ông được phong quân hàm Đại tướng[7].
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (1960), Nguyễn Chí Thanh tiếp tục được bầu vào Ban Chấp hành Trung ương, được cử vào Bộ Chính trị và Ban Bí thư. Năm 1961, được giao nhiệm vụ Phụ trách Ban Nông nghiệp của Đảng. Trong Chiến tranh Việt Nam, Ban Chấp hành Trung ương Đảng điều ông trở lại quân đội. Nguyễn Chí Thanh còn là Ủy viên Hội đồng Quốc phòng nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Năm 1961, ông liên tục phát động các phong trào thi đua trong các hợp tác xã, giúp ổn định tình hình phát triển trong hoạt động sản xuất nông nghiệp của miền Bắc.
Từ năm 1965 đến năm 1967, ông được phân công vào Nam, giữ chức Bí thư Trung ương Cục miền Nam, kiêm Chính ủy Quân Giải phóng miền Nam. Thời gian này ông lấy bí danh là Sáu Vi. Khi viết báo, ông thường lấy bút danh là Trường Sơn.
Tại chiến trường, ông là người đề ra chiến thuật đánh áp sát của Quân Giải phóng miền Nam với phương châm "Nắm thắt lưng địch mà đánh", lối đánh này dùng phương châm cơ động áp sát nhằm hạn chế ưu thế hỏa lực của quân Mỹ.[3][4]
Ông mất ngày 6 tháng 7 năm 1967 tại Hà Nội do một cơn nhồi máu cơ tim khi ra Hà Nội để báo cáo với Chủ tịch Hồ Chí Minh về tình hình miền Nam. Trước khi qua đời, ông cũng đã được trao huy hiệu 30 năm tuổi đảng. Ngày nay tại Việt Nam đang có những con phố và ngôi trường mang tên ông. Tại thành phố Huế có một nhà tưởng niệm ông.
Gia đình[sửa | sửa mã nguồn]
- Vợ: Nguyễn Thị Cúc – Thiếu tá quân đội, làm việc ở bệnh viện 108, mất năm 1979 tại Hà Nội.[5]
- Con trai đầu lòng là Nguyễn Trường Sơn (đã mất vào năm 1947).
- Người con gái thứ hai là Nguyễn Thanh Hà, Chủ tịch Hãng Hàng Không VietJet Air [8]
- Hai người con gái tiếp theo là Nguyễn Thị Kim Sơn và Nguyễn Thị Thành.
- Con trai út là Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, Thứ trưởng Bộ Quốc phòng Việt Nam[5][9][10][11].
Chú thích[sửa | sửa mã nguồn]
- ^ https://dantri.com.vn/xa-hoi/ky-uc-cua-tuong-nguyen-chi-vinh-ve-ba-dai-tuong-nguyen-chi-thanh-20220423130144408.htm.
|title=
trống hay bị thiếu (trợ giúp) - ^ “Lời giới thiệu cuốn sách Vị Tướng Khởi nguồn gió Đại Phong”. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2013.
- ^ a b c Người "nổ súng" chống chủ nghĩa cá nhân
- ^ a b “Vén màn bí ẩn ngày 10-10 lịch sử trên địa đạo Tam giác sắt”. Bản gốc lưu trữ ngày 17 tháng 10 năm 2013. Truy cập ngày 17 tháng 10 năm 2013.
- ^ a b c Nguyễn, Văn Đăng (2014), “Quê hương và gia thế của vị "đại tướng nhân dân"”, Hội thảo khoa học Đồng chí Nguyễn Chí Thanh với cách mạng Việt Nam và quê hương Thừa Thiên Huế: 568–579
- ^ Đại tướng Nguyễn Chí Thanh như tôi biết, Đại tướng Lê Đức Anh, Tiền phong]
- ^ “Sắc lệnh của Chủ tịch Phủ số 036/SL ngày 31 tháng 8 năm 1959”. Cổng thông tin điện tử Bộ Tư pháp. Bản gốc lưu trữ ngày 6 tháng 10 năm 2014. Truy cập ngày 12 tháng 9 năm 2014.
- ^ https://thanhnien.vn/tai-chinh-kinh-doanh/nhung-nu-tuong-xinh-dep-cua-vietjet-1192561.html
- ^ Nguyệt Tú - Nguyệt Tĩnh (4 tháng 2 năm 2006). “Chuyện tình yêu của đại tướng Nguyễn Chí Thanh”. Báo Tuổi trẻ online. Truy cập ngày 9 tháng 7 năm 2010.
- ^ Nguyễn Thanh Hà (6 tháng 7 năm 2007). “Kỷ niệm về cha tôi”. Báo Thanh niên. Lưu trữ bản gốc ngày 6 tháng 7 năm 2007. Truy cập ngày 10 tháng 7 năm 2010.
- ^ “Tướng Vịnh: Tôi tự hào với quân hàm "binh bét"”. Báo Tuổi trẻ online. 20 tháng 1 năm 2012. Truy cập ngày 17 tháng 9 năm 2014.
Liên kết ngoài[sửa | sửa mã nguồn]
- 2000 Ngày Đêm Trấn Thủ Củ Chi (Chương 77), của Xuân Vũ - Dương Đình Lôi.
- Người thầy của sáu vị tướng, Báo Pháp Luật TP.HCM.
- Những lá thư từ chiến trường, Báo Tuổi Trẻ.
- Chuyện tình yêu của đại tướng Nguyễn Chí Thanh, Báo Tuổi Trẻ.
- Những vụ thanh trừng